Đoàn kết, thống nhất trong Đảng theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, nội dung đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong công tác xây dựng Đảng là vấn đề đoàn kết, thống nhất (ĐK,TN).

Đây là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho Đảng thực sự vững mạnh, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử, đó là: Lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng. Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự ĐK,TN trong Đảng, Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[1]. Và Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[2]. Cùng với lời căn dặn đầy tâm huyết đó trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp củng cố và tăng cường sự ĐK,TN trong Đảng qua những bài viết, nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nhân dân, tựu trung là: Phải đề cao thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau. Mỗi cán bộ, đảng viên phải lấy sự nghiệp cách mạng của Đảng làm mục tiêu, lý tưởng phấn đấu, đặt lợi ích chung lên trên, lên trước lợi ích cá nhân, toàn tâm, toàn ý với công việc, luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, vv.

Toàn văn bản Di chúc không dài, được Người viết từ năm 1965 và bổ sung qua mỗi năm; trong đó, Người đã nhiều lần đề cập đến vấn đề ĐK,TN trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Điều đó thể hiện sâu sắc tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Có thể khẳng định, Di chúc là công trình lý luận về xây dựng Đảng và củng cố Đảng cầm quyền. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy Chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Và, vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng là giữ vững sự ĐK,TN trong Đảng. Nghiên cứu nội dung Di chúc và cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta dễ dàng nhận thấy, tư tưởng, tình cảm, lòng mong muốn đó của Người xuất phát từ truyền thống ĐK,TN của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước; được khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và trở thành ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Lời căn dặn đầy tâm huyết của Người đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động cho Đảng ta trong suốt quá trình xây dựng, chỉnh đốn và phát huy vai trò lãnh đạo trong các giai đoạn cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, 45 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn sự ĐK,TN, lấy đó làm cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quy tụ và phát huy sức mạnh toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Tại các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề ĐK,TN đều được xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc và sâu sắc. Nhờ đó, Đảng không ngừng mạnh lên, tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổng kết thực tiễn cách mạng 10 năm sau ngày nước nhà thống nhất, Đại hội VI của Đảng đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm quý, trong đó có bài học: “Tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng”. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, lúc cách mạng phát triển thuận lợi, hay lúc sóng gió, khó khăn, trước những bước ngoặt của lịch sử, Đảng vẫn luôn là một khối thống nhất về ý chí, tư tưởng và hành động. Bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, Đảng càng quan tâm chăm lo đến sự ĐK,TN, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi khi có vấn đề nảy sinh về nhận thức và hành động, ảnh hưởng đến sự ĐK,TN trong Đảng, thì vũ khí tự phê bình và phê bình theo Tư tưởng Hồ Chí Minh lại được phát huy; tình cảm, trách nhiệm của mỗi thành viên đối với Đảng lại thêm gắn bó. Vì thế, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng luôn được bồi đắp; niềm tin vào Đảng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được củng cố.

Tuy nhiên, trong những năm qua, nhất là từ trước khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ kéo dài, chậm được khắc phục, thậm chí còn có xu hướng phát triển ở nơi này, nơi khác, không chỉ ở cơ sở; chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao. Không ít tổ chức Đảng chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực chưa nghiêm; sự đoàn kết, nhất trí của một số cấp ủy còn yếu. Những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, cục bộ địa phương chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, vv.

Từ thực tiễn 84 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam và 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của vấn đề ĐK, TN. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, khi thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn luôn đan xen, với nhiều tình huống diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đòi hỏi Đảng càng phải có quyết tâm chính trị cao, sự ĐK, TN chặt chẽ mới vượt qua được. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng khó khăn, khuyết điểm để bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Chúng dùng mọi thủ đoạn thâm độc để mua chuộc, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng và khối đại đoàn kết dân tộc,... Hơn lúc nào hết, sự ĐK, TN trong Đảng càng phải được thể hiện rõ. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ĐK, TN trong Đảng cần tiếp tục được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, trở thành nguồn sức mạnh to lớn trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Để làm được điều đó, trước hết, chúng ta cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về sự ĐK, TN trong Đảng. Thông qua giáo dục để cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc rằng, sự ĐK, TN trong Đảng phải dựa trên cơ sở nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, trên tình thương yêu đồng chí, đồng đội, chứ không phải đoàn kết theo kiểu hình thức, xuôi chiều, nể nang, “dĩ hòa vi quý”. Trên cơ sở nhận thức đúng, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động, giữ vững sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội, tạo tiền đề quan trọng để tăng cường sự ĐK, TN trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự điều chỉnh và tu dưỡng, rèn luyện cho phù hợp với yêu cầu chung; gắn mình với tập thể, “dĩ công vi thượng”, luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Những nhận thức và hành động trái với nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, xét lại, gây mất đoàn kết nội bộ cần phải được kiên quyết loại trừ.

Đồng thời, từng tổ chức, từng cá nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của cán bộ, đảng viên là cơ sở của sự ĐK, TN trong Đảng. Muốn thế, phải mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội để họ bày tỏ ý kiến cùng những tâm tư, nguyện vọng, đề xuất cá nhân cho chương trình, giải pháp lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp. Tuy nhiên, dân chủ phải dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, điều lệ, đường lối, quan điểm của Đảng, quy chế, quy định, nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp; mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Tập trung trên cơ sở dân chủ, mọi chủ trương, biện pháp lãnh đạo phải dựa trên trí tuệ của tập thể, không áp đặt ý kiến cá nhân. Đối với những vấn đề phức tạp nảy sinh, cần có sự trao đổi, bàn bạc, tôn trọng ý kiến cấp dưới, tránh sự độc đoán, gia trưởng; phát huy trí tuệ tập thể phải đi đôi với đề cao vai trò, trách nhiệm, ý chí của cá nhân người đứng đầu, có sự phân công, phân cấp cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành. Chỉ có như vậy mới quy tụ được sức mạnh tập thể, giải tỏa được mọi vướng mắc và mới đi đến hành động thống nhất. Các cấp ủy phải rà soát, hoàn chỉnh hệ thống quy chế, quy định, nhất là các mặt công tác trọng yếu, dễ phát sinh tiêu cực, mất đoàn kết; đổi mới phương pháp, tác phong công tác, làm việc theo chức trách, nhiệm vụ, không bao biện, làm thay, cá nhân, cục bộ, vv.

Mặt khác, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là “cách tốt nhất”, là “thang thuốc” hữu hiệu nhất để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, từ đó tạo sự ĐK, TN trong Đảng. Việc tiến hành tự phê bình và phê bình phải tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên, phê bình việc làm chứ không phê bình người và phải thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày”. Trong phê bình phải trung thực, thẳng thắn, chân thành, rõ ưu điểm và nhược điểm, không né tránh nhưng cũng không lợi dụng phê bình để đả kích, “hạ bệ” lẫn nhau. Đồng thời, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, “lợi ích nhóm”, coi đó là hai mặt của một quá trình tu dưỡng, phấn đấu của người cán bộ, đảng viên, tạo nền tảng vững chắc cho sự ĐK, TN trong Đảng.

Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc giữ vững sự ĐK, TN trong tổ chức Đảng và trong các cơ quan, đơn vị. Giữ trọng trách chủ trì cơ quan, đơn vị, người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, cũng như sự ĐK, TN nội bộ. Bởi vậy, phẩm chất, năng lực, vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải quán triệt và chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các nguyên tắc, quy chế, quy định và chế độ công tác; gương mẫu trong tự phê bình và phê bình, khắc phục khuyết điểm; đem lòng chí công vô tư mà xử lý công việc, đối xử với mọi người và chính bản thân mình. Đồng thời, phải thể hiện rõ thái độ công tâm, ủng hộ cái đúng, bảo vệ chân lý, phê phán cái sai; chống biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không bảo vệ, sai không đấu tranh, phê bình.

Đặc biệt, chúng ta cần tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời biểu hiện mất đoàn kết trong Đảng. Đây là biện pháp cụ thể, thiết thực giúp các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng và các quy chế, chế độ, quy định, không ngừng chăm lo vun đắp cho việc tăng cường khối ĐK, TN trong Đảng. Với những cán bộ qua kiểm tra, phát hiện có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán, chuyên quyền, bè phái, cục bộ, mất đoàn kết, phải xử lý nghiêm túc, khi cần có thể thay thế. Với tổ chức Đảng cần phát hiện sớm những biểu hiện mất đoàn kết để có biện pháp chủ động ngăn chặn, khắc phục từ xa,vv.

--------

[1], [2] - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H.2002, tr. 510.

Nguồn QĐND Online