Việt Nam cam kết đạt mục tiêu phát triển bền vững vùng bờ biển

Đại hội Biển Đông Á lần thứ 5 (diễn ra từ 16 – 21/11/2015 tại Đà Nẵng) là một sự kiện quốc tế rất quan trọng đối với lĩnh vực biển, hải đảo dưới nhiệm vụ thực thi quản lý tài nguyên môi trường vùng ven bờ.

Việt Nam đăng cai tổ chức Đại hội lần này nhằm khẳng định vị thế, vai trò và đóng góp của Việt Nam trong nỗ lực chung vì môi trường và hệ sinh thái biển; vì hòa bình, hữu nghị, phát triển trong khu vực biển Đông Á nói riêng và trên trường quốc tế nói chung.

 

Đại hội Biển Đông Á lần thứ 5 sẽ diễn ra từ 16 – 21/11/2015
tại Đà Nẵng. Ảnh: monre.gov.vn

Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Biển Đông Á - một phần quan trọng của Đại dương thế giới, là nguồn cảm hứng vô tận và nguồn của cải để nuôi sống một bộ phận rất lớn cư dân các nước Đông Á. Việc khai thác, sử dụng những nguồn tài nguyên quý giá của biển Đông Á đã tạo điều kiện cho sự lớn mạnh của nền kinh tế các nước ven biển Đông Á và của nhiều nước ngoài khu vực.

Trong những năm qua, kinh tế biển đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Việt Nam. Hiện nay, GDP kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đạt trên 50% tổng GDP của cả nước và đang gia tăng. Tăng trưởng nhanh của kinh tế vùng ven biển đóng góp rất lớn vào việc tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường phúc lợi, cải thiện điều kiện sống, tạo thêm cơ hội và từng bước bảo đảm công bằng xã hội cho cư dân ven biển Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

Tầm quan trọng của Biển Đông Á và Đại dương thế giới mang lại cho con người là vô cùng to lớn nhưng nguồn tài nguyên và sức tải môi trường không phải là vô tận. Trong những năm qua, con người đã khai thác, sử dụng quá mức, thậm chí hủy diệt các nguồn tài nguyên, trong đó quan trọng nhất là nguồn tài nguyên sinh vật và các hệ sinh thái.

Hiện nay, những tác động xấu do hoạt động của con người và của biến đổi khí hậu đã tạo ra những đe dọa nghiêm trọng tới nguồn tài nguyên, môi trường, tới sức khỏe của đại dương thế giới và của Biển Đông Á.

Cũng giống như các quốc gia khác, biển Việt Nam đang đối mặt với rất nhiều nguy cơ. Môi trường biển bị ô nhiễm, các hệ sinh thái biển bị suy thoái, nguồn lợi thủy sản suy giảm, thiên tai biển có chiều hướng gia tăng và các tác động xấu của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt. Để ngăn chặn xu thế suy thoái biển Việt Nam và đại dương thế giới, giảm thiểu rủi ro thảm họa và biến đổi khí hậu, từ Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro năm 1992 cho đến nay, Việt Nam đã tham gia và rất nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế về nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Việt Nam đang từng bước thực hiện phương thức quản lý tổng hợp, thống nhất biển và hải đảo theo cách tiếp cận hệ sinh thái cũng như hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước để đảm bảo khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, ngăn ngừa, khắc phục các tác động xấu của thiên tai và biến đổi khí hậu, bảo vệ, khôi phục đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển Việt Nam; đóng góp vào việc cải thiện môi trường các Biển Đông Á.

Theo nguyên tắc cơ bản của quản lý tổng hợp theo cách tiếp cận hệ sinh thái, cơ chế dân chủ ở cơ sở cũng đang được phát huy triệt để nhằm đảm bảo cho cộng đồng và các cá nhân dân cư địa phương hiểu biết và tham gia hiệu quả vào quá trình quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Với những nỗ lực nêu trên, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển, ngăn chặn xu thế suy thoái của rừng ngập mặn, khôi phục đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản, bước đầu giảm được xu thế suy thoái các rạn san hô và nhiều hệ sinh thái biển quan trọng khác. Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực đóng góp vào những nỗ lực của các nước khu vực biển Đông Á để đảm bảo một nền kinh tế biển xanh, tăng trưởng xanh.

Tiếp tục cam kết đạt mục tiêu phát triển bền vững vùng bờ biển

Trong thời gian qua, bằng cách thể chế hóa và lồng ghép các chương trình quản lý tổng hợp biển và hải đảo vào hệ thống các chính sách, chiến lược đã giúp cho Việt Nam trở thành một trong những nước trong khu vực thực hiện tích cực nhất Chiến lược Phát triển bền vững các biển Đông Á (SDS-SEA).

Chính phủ Việt Nam, thông qua Bộ Tài nguyên và Môi trường, cam kết đạt được mục tiêu phát triển bền vững vùng bờ biển thông qua việc thực hiện quản lý tổng hợp biển và hải đảo, trong đó có quản lý tổng hợp vùng bờ (QLTHVB). Quan hệ đối tác với Tổ chức Đối tác quản lý môi trường các biển Đông Á (PEMSEA) và các bên liên quan khác đã cho phép mở rộng quy mô của QLTHVB đến các khu vực ven biển khác của đất nước.

7 tỉnh, thành phố ven biển gồm Nam Định, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang, Sóc Trăng và Khánh Hòa đã trở thành các khu vực ưu tiên để thực hiện QLTHVB cho giai đoạn 2011-2015 cùng với ba điểm trình diễn QLTHVB hiện có của PEMSEA, đó là Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên - Huế. Cam kết về hợp tác và phát triển bền vững đã giúp cho Việt Nam trở thành địa điểm lý tưởng của Đại hội năm 2015.

Cùng với đó, Chiến lược phát triển bền vững quốc gia giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam hướng đến mục đích cân bằng sự tăng trưởng bền vững với tiến bộ và bình đẳng xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường quốc gia và các mục tiêu khác. Định hướng chiến lược phát triển bền vững (Chương trình nghị sự 21) của Việt Nam, được sử dụng như là một khung cho các bộ, ngành và các bên liên quan làm theo trong suốt quá trình thực hiện chương trình. Việt Nam đã dành thời gian và nỗ lực để soạn thảo các kế hoạch quốc gia và sự đảm bảo tối đa các nguồn lực để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh.

Chủ đề của Đại hội Biển Đông Á lần thứ 5 năm nay là "Mục tiêu toàn cầu, lợi ích địa phương: Thiết lập chương trình nghị sự phát triển bền vững cho các biển Đông Á" rất phù hợp với sự thành công về triển khai thực hiện quản lý tổng hợp biển và hải đảo của Việt Nam. Bảo tồn và bảo vệ các biển Đông Á là một hoạt động có khả năng đoàn kết các nước trong khu vực. Đây cũng là dịp để Việt Nam cùng các tổ chức, quốc gia trong khu vực cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm, ý tưởng mới nhất trong lĩnh vực này và hỗ trợ việc xây dựng các chiến lược sáng tạo để mở rộng các chương trình QLTHVB ở các khu vực khác.

Nguồn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam