Cần sớm có chính sách công nghiệp tổng thể

Thời gian qua, Việt Nam đã không tận dụng tốt được lợi thế giai đoạn dân số vàng và lợi thế là nước đi sau trong công nghiệp hóa. Vì vậy, chúng ta cần có chính sách công nghiệp quốc gia mang tính tổng thể, khả thi, có chọn lọc và tầm nhìn dài hạn.

Đó là ý kiến của Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình tại Hội thảo khoa học quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Công Thương phối hợp tổ chức ngày 10/3.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: VGP/Huy Thắng

Nguyên nhân khiến công nghiệp Việt Nam chậm phát triển

Ông Nguyễn Văn Bình cho biết cần ghi nhận những thành tựu của công nghiệp Việt Nam với những đóng góp rất quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Song, cho đến nay, nhìn chung công nghiệp Việt Nam đang ở trình độ phát triển thấp, còn nhiều hạn chế và bất cập. Tăng trưởng thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng chậm được cải thiện, nội lực của nền công nghiệp còn yếu.

Cụ thể là tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đang có xu hướng giảm mạnh. Giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng trưởng là 16,2%/năm, đến giai đoạn 2011-2015 giảm xuống chỉ còn 10%/năm. Mức tăng trưởng phụ thuộc khá lớn vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỉ lệ nội địa hoá thấp. Tăng trưởng vẫn nhờ vào mở rộng quy mô những ngành sử dụng nhiều lao động, còn ít ngành công nghiệp công nghệ cao.

Tốc độ tăng năng suất lao động của ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2015 khoảng 2,4%/năm, chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung của nền kinh tế (3,9%) và thuộc loại thấp trong khu vực. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành công nghiệp còn thấp, chủ yếu vẫn dựa vào tăng vốn và lao động, còn đóng góp của yếu tố công nghệ đối với tăng năng suất của ngành chế biến, chế tạo chỉ chiếm khoảng 11,1%.

Theo lãnh đạo Ban Kinh tế Trung ương, những yếu kém, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tư duy và cách tiếp cận trong xây dựng chính sách công nghiệp quốc gia chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Đánh giá về chính sách công nghiệp, TS. Vũ Thành Tự Anh (Đại học Fulbright Việt Nam) cho hay từ những dẫn chứng cụ thể những thất bại trong việc phát triển xi măng lò đứng, ô tô, đường, thép… cho thấy mẫu số chung là dựa vào lợi thế so sánh sẵn có tại một thời điểm, đồng thời nhận được sự “ưu ái” chính sách quá mức, đến mức hầu như doanh nghiệp ỷ lại.

Còn nếu nhìn vào những thành công của xuất khẩu dệt may, da giày, tôm, cá… thường vẫn phải cạnh tranh quyết liệt, bị hàng rào bảo hộ, không có nhiều lợi thế nhưng nhờ chính sách hợp lý nên vẫn phát triển được thị trường.

Do đó, TS. Vũ Thành Tự Anh cho rằng không nên theo đuổi chính sách ưu tiên một số sản phẩm công nghiệp cá biệt như hiện nay. Thay vào đó, cần xem xét lại chính sách ưu tiên, điều này vô hình trung khiến doanh nghiệp ỷ lại, không cạnh tranh thì sẽ không thể “lớn” được.

Phải đưa cuộc sống vào chính sách

Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng tới mục tiêu “Phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” , điều này đã được nêu trong Văn kiện Đại hội XII. Do đó, hơn bao giờ hết trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, phải có một chính sách công nghiệp quốc gia đúng đắn và quá trình triển khai thực hiện đồng bộ, kiên quyết và nhất quán.

Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình cho biết thực hiện nhiệm vụ cụ thể hóa chủ trương, Ban Kinh tế Trung ương đang tích cực phối hợp với Bộ Công Thương và các bộ, ngành, các chuyên gia xây dựng đề án tham mưu cho Bộ Chính trị về chính sách công nghiệp quốc gia của nước ta trong giai đoạn tới.

Ông Nguyễn Văn Bình cho rằng chính sách công nghiệp cần có tầm nhìn dài hạn, đồng thời, phải đánh giá đúng về tầm quan trọng của yếu tố nhân lực, khoa học và công nghệ trong phát triển công nghiệp. Đồng thời, còn thiếu các chính sách cụ thể, thiếu sự ưu tiên về nguồn lực để theo đuổi một cách nhất quán và quyết liệt các mục tiêu đã đề ra. Quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia chưa tôn trọng đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường, chưa tham vấn đầy đủ các đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.

Đại diện cơ quan xây dựng chính sách, ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương nói chúng ta cần đổi mới tư duy khi xây dựng chính sách. Theo đó, thay vì việc tư duy theo hướng cũ là đưa chính sách vào cuộc sống thì nay cần phải làm ngược lại, phải kết hợp đồng bộ việc đưa cuộc sống vào chính sách.

Trong lĩnh vực đầu tư, cần tránh dàn trải, đồng thời chỉ tập trung tối đa vào một số ngành, sản phẩm chủ yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng, xây dựng thương hiệu mạnh và tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và nước ngoài.

Về thị trường, cần xác định phát triển thị trường hàng hóa là yếu tố quan trọng cho sự phát triển công nghiệp. Trong lĩnh vực liên kết ngành, cần phát huy sức mạnh tổng thể của các thành phần kinh tế, khai thác mọi nguồn lực cho phát triển.

Có cùng quan điểm, TS. Vũ Thành Tự Anh cho rằng Nhà nước nên thực thi chính sách ưu tiên phát triển một số lĩnh vực năng lực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước, cần có sự cạnh tranh sàng lọc và Nhà nước chỉ hỗ trợ người “thắng cuộc” trong cạnh tranh, vì nếu hỗ trợ dàn trải sẽ thất bại.

Còn GS. David Dapice (Đại học Harvard, Mỹ) gợi mở cho đến năm 2025, Việt Nam cần thay đổi để tăng năng suất và gia tăng giá trị sản xuất nhưng trước hết cần phải giảm các khoản chi phí, nhất là các chi phí không chính thức.

GS. Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Nhật Bản) bày tỏ tiếc nuối khi Việt Nam đã có đủ lợi thế của một nước đi sau trong công nghiệp hóa và đang ở giai đoạn dân số vàng như Hàn Quốc, Nhật Bản… nhưng lại không tận dụng được lợi thế này để bứt lên.

Vì thế, theo GS. Trần Văn Thọ, với một quốc gia sắp đạt 100 triệu dân, nếu không công nghiệp hoá sâu và rộng kịp thời, có thể bị rơi vào tình trạng “hậu công nghiệp hoá” quá sớm, tốc độ tăng trưởng giảm và sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Do đó, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa vừa theo diện rộng vừa tiến sâu vào chuỗi giá trị của sản phẩm, đồng thời, có chính sách khôn ngoan trong chọn lựa FDI và nuôi dưỡng các doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Nguồn www.chinhphu.vn