Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015-2020

(NTO) Trong không khí phấn khởi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà thi đua lập nhiều thành tích xuất sắc chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

Từ ngày 22-9-2015 đến ngày 24-9-2015, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 được long trọng tổ chức tại thành phố Phan Rang- Tháp Chàm với sự có mặt của 350 đại biểu, đại diện cho hơn 15 ngàn đảng viên của 12 đảng bộ trực thuộc.

Toàn cảnh Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015- 2020..

Đại hội diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng lên, hội nhập ngày càng sâu rộng, tỉnh nhà có bước phát triển mới; nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn: Các yếu kém nội tại của nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền biển, đảo cùng với những vấn đề toàn cầu về biến đổi khí hậu, dịch bệnh đang là thách thức lớn. Với quyết tâm chính trị, các đại biểu đã phát huy tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, đảm bảo nguyên tắc, thực hành dân chủ, thảo luận, thống nhất cao các nội dung Đại hội đề ra.

Đại hội quyết nghị

I/ Thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 trình Đại hội và khẳng định:

1/ Về đánh giá tình hình, kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết

Năm năm qua, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ, phát huy tính năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển khá; một số ngành, lĩnh vực phát triển nhanh và tăng trưởng cao hơn giai đoạn trước. Các khâu đột phá về quy hoạch, đầu tư đồng bộ hạ tầng, nâng chất lượng nguồn nhân lực và cải cách hành chính được tập trung chỉ đạo thực hiện có kết quả. Thu ngân sách vượt chỉ tiêu kế hoạch, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh; huy động nhiều nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi và hạ tầng đô thị, xây dựng thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đạt tiêu chí đô thị loại II. Kinh tế biển, đô thị ven biển tiếp tục phát triển. Các thành phần kinh tế, kinh tế đối ngoại, hợp tác phát triển với các tỉnh, khu vực được mở rộng; công tác quảng bá tiềm năng, lợi thế Ninh Thuận có chuyển biến tích cực. Công tác quản lý tài nguyên môi trường, kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường, môi trường đầu tư tiếp tục cải thiện.

Công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được quan tâm chỉ đạo, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các chính sách xã hội và an sinh xã hội được chăm lo ngày càng tốt hơn; giải quyết việc làm và giảm nghèo đạt kết quả; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, nhất là vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện. Mạng lưới y tế được củng cố, chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân và phòng chống dịch bệnh tốt hơn.

Nhiệm vụ quốc phòng - an ninh được quán triệt, triển khai toàn diện và đạt hiệu quả; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được tăng cường vững chắc; chủ động phòng chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch có hiệu quả.

Công tác nội chính, cải cách tư pháp thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm chỉ đạo, xử lý kịp thời, đúng quy định.

Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng tiếp tục nâng lên, đoàn kết thống nhất trong Đảng được tăng cường. Công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị và công tác tổ chức, cán bộ có nhiều chuyển biến tiến bộ. Vai trò lãnh đạo của đa số tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thực sự có chuyển biến; thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) với quyết tâm chính trị cao được cán bộ, đảng viên đồng tình, thực hiện nghiêm túc, bước đầu khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu kém. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng.

Công tác dân vận của Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng có bước đổi mới, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và phát huy; cơ chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được thực hiện, các nguyện vọng chính đáng của Nhân dân được quan tâm giải quyết.

2/ Đại hội cũng chỉ ra một số hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân

Một số chỉ tiêu về kinh tế đạt thấp so với mục tiêu kế hoạch 5 năm. Tiềm năng, lợi thế mới chậm được khai thác, nhất là chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến các sản phẩm có lợi thế của địa phương để tạo đột phá thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn hạn chế. Đầu tư kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu cho phát triển; cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh vẫn là điểm nghẽn để thu hút phát triển sản xuất kinh doanh; quy mô doanh nghiệp nhỏ, khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế.

Một số dự án quy mô lớn ngành Công nghiệp chậm triển khai. Du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đầu tư đúng mức cho phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng dịch vụ, du lịch và môi trường còn hạn chế.

Chủ trương xây dựng trường đại học tại Ninh Thuận triển khai chậm; chất lượng giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân, dân số - gia đình và trẻ em nhìn chung chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, có sự chênh lệch giữa các vùng, miền. Đời sống một bộ phận Nhân dân còn nhiều khó khăn; giảm nghèo chưa bền vững. Phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiệu quả thấp so với nguồn lực đầu tư. Ô nhiễm môi trường ở một số nơi chậm được khắc phục.

Xây dựng các tiềm lực và thế trận khu vực phòng thủ của địa phương trên một số mặt còn hạn chế; an ninh nông thôn, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa kịp thời, thiếu kiên quyết.

Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan, địa phương trong giải quyết công việc, thủ tục hành chính có mặt còn bất cập. Một số cán bộ, công chức ý thức, thái độ, trách nhiệm phục vụ Nhân dân chưa cao.

Chất lượng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có mặt chưa vững chắc. Chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chi bộ ở một số nơi chuyển biến chậm, nội dung chưa có nhiều đổi mới, tinh thần phê bình và tự phê bình chưa cao. Việc triển khai chuyên đề học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hàng năm và đăng ký “làm theo” ở một số nơi còn mang tính hình thức. Vai trò nêu gương của một số ít cán bộ lãnh đạo chưa rõ nét. Công tác tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số còn hạn chế. Phát triển tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp tư nhân còn thấp.

Việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát có nơi thiếu chủ động. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống. Việc cụ thể hóa một số chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào thực tiễn địa phương còn hạn chế, công tác sơ, tổng kết đổi mới chưa nhiều.

Công tác dân vận ở các cấp chính quyền có mặt hạn chế, nhất là trong triển khai một số chương trình, dự án. Xây dựng và phát huy vai trò, hiệu quả của lực lượng cốt cán còn yếu.

- Về nguyên nhân những hạn chế: Ngoài các nguyên nhân khách quan do suy thoái kinh tế thế giới, trong nước kinh tế vĩ mô không ổn định, quy mô nền kinh tế của tỉnh nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp, tình hình hạn hán kéo dài, xảy ra trên diện rộng… nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chính:

Năng lực dự báo, phân tích còn hạn chế, có mặt còn chủ quan; tổ chức triển khai thực hiện một số quy hoạch chưa bám sát nội dung được phê duyệt, chưa lường hết được những khó khăn tác động đến quá trình thực hiện nhiệm vụ. Huy động các nguồn lực thực hiện các khâu đột phá, nhất là đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng còn hạn chế.

Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện một số chủ trương, nhiệm vụ vẫn là khâu yếu. Việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn ở một số ngành và địa phương có mặt còn bất cập.

Tinh thần trách nhiệm của một bộ phận đảng viên, cán bộ công chức trong thực thi công vụ chưa cao. Công tác phối hợp giữa một số ngành và địa phương còn thiếu đồng bộ, tham mưu xử lý một số công việc còn có biểu hiện đùn đẩy.

Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với các tổ chức và hoạt động của chính quyền, Mặt trận, đoàn thể có mặt chậm được đổi mới. Vai trò lãnh đạo của tập thể và trách nhiệm người đứng đầu trên một số lĩnh vực chưa phát huy tốt, công tác kiểm tra, giám sát chưa toàn diện.

3/ Đại hội nhất trí các chỉ tiêu chủ yếu đến 2020

- Về kinh tế: Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP theo giá so sánh năm 2010) đạt 10 - 11%/năm. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 58 - 60 triệu đồng/người.

Giá trị gia tăng các ngành: Nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 5 - 6%/năm; công nghiệp- xây dựng tăng 14 - 15%/năm; dịch vụ tăng 11 - 12%/năm.

Cơ cấu kinh tế: Nông - lâm - thủy sản chiếm 28 - 29%; công nghiệp - xây dựng chiếm 30 - 31%; dịch vụ chiếm 39 - 40% GRDP vào năm 2020.

Tổng thu ngân sách trên địa bàn đến năm 2020 đạt 2.800 - 3.000 tỷ đồng.

Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2020 là 150 triệu USD.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 51 - 55 nghìn tỷ đồng.

- Về xã hội: Tạo việc làm mới cho 15,5 nghìn lao động/năm. Lao động qua đào tạo đến năm 2020 đạt 60%, trong đó đào tạo nghề đạt 45%. Hộ nghèo giảm bình quân hàng năm từ 1,5 - 2%/năm (theo chuẩn mới).

Đến năm 2020: Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,12%; quy mô dân số trung bình đạt 640 nghìn người; đạt 10 bác sỹ/1 vạn dân và 70% trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sỹ; 90% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 13%.

Có 50% số trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia, 80% số học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày; 20% số trường mầm non đạt chuẩn quốc gia; có 90% số thôn, khu phố, 100% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn về văn hóa. Diện tích sàn nhà ở bình quân 20m2 sàn/người.

- Về môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 50%. Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95%; số hộ nông thôn có nhà vệ sinh đạt 85%; thu gom rác thải đô thị đạt 95%.

- Về quốc phòng- an ninh: Tỷ lệ xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện đạt từ 70% trở lên. Dân quân, tự vệ đạt từ 1,4 - 1,5% so với dân số; tỷ lệ đảng viên trong dân quân tự vệ đạt 22% trở lên. Có 85% xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp đạt loại khá trở lên về an toàn - an ninh, trật tự.

- Về xây dựng Đảng: Tổ chức cơ sở đảng hàng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 90% trở lên, trong đó: trong sạch, vững mạnh đạt 50%. Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm đạt từ 80% trở lên; hàng năm kết nạp từ 800 - 900 đảng viên mới.

4/ Đại hội khẳng định các nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong thời gian tới

4.1/ Về kinh tế: Đẩy mạnh tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Khai thác tốt tiềm năng, lợi thế kinh tế biển, phát triển đồng bộ cả khai thác, nuôi trồng gắn với chế biến; xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm sản xuất tôm giống chất lượng cao của cả nước. Giá trị sản xuất ngành nông - lâm - thủy sản tăng bình quân hàng năm 6 - 7%/năm.

Tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, năng lượng sạch tạo động lực tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 19- 20%/năm.

Phát triển có trọng điểm các dự án du lịch đẳng cấp cao và tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược tạo ra đặc sắc riêng của Ninh Thuận. Hoàn thành một số dự án du lịch trọng điểm theo quy hoạch đã được phê duyệt tạo năng lực mới gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, thu hút khách du lịch đến năm 2020 đạt trên 2,4 triệu lượt khách.

Tập trung chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ thu, chi ngân sách hàng năm, phấn đấu tăng thu ngân sách để đáp ứng cao hơn nhu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Huy động tốt nhất và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 51 - 55 nghìn tỷ đồng, trong đó: vốn các thành phần kinh tế và dân cư chiếm 54,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trọng tâm đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, nhất là về giao thông, thủy lợi, giáo dục - đào tạo và phát triển đô thị để tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

Tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện các quy hoạch phát triển đô thị, nông thôn mới. Hình thành các khu đô thị tập trung có quy mô hợp lý, các trung tâm kinh tế vùng; tiếp tục phát triển thành phố Phan Rang - Tháp Chàm thành đô thị thương mại - dịch vụ theo hướng hiện đại, văn minh, “xanh - sạch - đẹp”; quan tâm đầu tư nâng cấp thị trấn Tân Sơn (huyện Ninh Sơn) đạt đô thị loại 4, thành lập mới thị trấn Phước Đại (huyện Bác Ái) và Lợi Hải (huyện Thuận Bắc). Từng bước hình thành trung tâm hành chính tỉnh, trước mắt thực hiện công tác giải phóng mặt bằng và chuẩn bị đầu tư.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước; hạn chế tối đa xuất khẩu khoáng sản thô, thúc đẩy chế biến sâu.

Tiếp tục triển khai chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi, thực hiện có hiệu quả Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững huyện Bác Ái theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Xây dựng mô hình sản xuất nông - lâm kết hợp với chăn nuôi, góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào, giữ gìn môi trường sinh thái; tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi giảm bình quân 5 - 6%/năm.

4.2/ Về văn hóa, xã hội: Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, trọng tâm nâng cao chất lượng giáo dục, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chú trọng sắp xếp hệ thống mạng lưới trường lớp các cấp học.

Tiếp tục đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn, y đức cho đội ngũ cán bộ y tế từ tỉnh đến cơ sở đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Nâng cấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh lên Bệnh viện hạng 1 vào năm 2020.

Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học, tạo lợi thế cạnh tranh, hướng đến phát triển sản xuất hàng hóa gắn với chế biến và xây dựng thương hiệu. Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học tại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện môi trường, tiết kiệm nước, tiết kiệm năng lượng để nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế.

Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong bảo vệ môi trường, triển khai chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Tạo cơ hội để mọi người lao động có việc làm và thu nhập ổn định, giảm nghèo bền vững; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và người có công. Mở rộng các hình thức trợ giúp đến các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội. Trọng tâm là xây dựng nền văn hóa phát triển toàn diện và có nét đặc sắc riêng, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo, trí tuệ con người Ninh Thuận. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa, các loại hình nghệ thuật truyền thống, dân gian, thuần phong mỹ tục tốt đẹp trong Nhân dân.

4.3/ Quốc phòng, an ninh: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Thực hiện tốt công tác cải cách tư pháp; chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tư pháp.

4.4/ Về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị: Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Đẩy mạnh chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, nhất là đội ngũ cán bộ chiến lược của tỉnh. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, bảo đảm cho nghị quyết, chủ trương của Đảng được thực hiện có hiệu quả.

Tập trung đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của các Ban Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân. Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính các cấp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước trong giai đoạn mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập khu vực, quốc tế.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, hội quần chúng vững mạnh từ cơ sở. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Thực hiện có hiệu quả các nội dung về tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân.

5/ Đại hội thống nhất tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp chủ yếu như sau

5.1/ Thực hiện đồng bộ, mạnh mẽ các giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo sự chuyển biến rõ nét về nhận thức tư tưởng chính trị, kịp thời giải quyết có hiệu quả vấn đề bức xúc, lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

- Cấp ủy các cấp quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vào thực tiễn địa phương, đơn vị. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nghị cấp ủy, nghiên cứu cụ thể hóa nghị quyết bằng chương trình, kế hoạch hành động thiết thực, bảo đảm tính khả thi.

- Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội; xây dựng tác phong gần gũi quần chúng, sâu sát cơ sở, chỉ đạo giải quyết có hiệu quả các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các chương trình trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị đảm bảo hiệu quả. Chỉ đạo xây dựng, triển khai Đề án về đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo; Đề án nâng cao hiệu quả công tác dân vận đối với vùng đồng bào dân tộc miền núi giai đoạn 2016 - 2020.

- Nâng chất lượng tham mưu trên tất cả các mặt của công tác xây dựng Đảng, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tăng cường sự phối hợp của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, làm tốt công tác vận động quần chúng.

5.2/ Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững

- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm, địa phương đến năm 2020 theo định hướng tái cơ cấu kinh tế của tỉnh, phát huy lợi thế của địa phương, gắn kết sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ.

- Tập trung chỉ đạo xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới; trọng tâm là ứng dụng khoa học, công nghệ để chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng ưu tiên phát triển cây trồng chịu hạn, sử dụng nước tiết kiệm; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nhất là đại gia súc (bò, dê, cừu); phát triển nuôi trồng thuỷ sản, nâng cao hiệu quả khai thác thủy sản gắn với phát triển chế biến; chú trọng bảo vệ và phục hồi rừng, nhất là ở lưu vực của các hồ chứa, bảo đảm môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp có lợi thế của tỉnh.

- Huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư hợp tác công - tư, như: BT, BOT, PPP,… Trọng tâm tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư giới thiệu tiềm năng, lợi thế, danh mục các dự án đến nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ… để thu hút đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế của tỉnh theo quy hoạch. Công khai, kiên quyết thu hồi các dự án không đủ năng lực tài chính hoặc không triển khai theo giấy phép đầu tư đã cấp, nhất là các dự án đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp, du lịch; đồng hành, hỗ trợ các nhà đầu tư trong triển khai các dự án.

- Xây dựng cơ chế đặc thù để hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu về giao thông, thủy lợi, y tế và giáo dục, các công trình văn hóa lớn của tỉnh; đặc biệt ưu tiên đầu tư hệ thống thủy lợi Tân Mỹ để giải quyết tình trạng hạn hán, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới. Tranh thủ vận động các nguồn vốn ODA, NGO để đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng ở vùng nông thôn, vùng khó khăn. Hàng năm trích ngân sách tỉnh khoảng 30 - 40 tỷ đồng, lồng ghép nguồn lực của Trung ương để hỗ trợ đầu tư xây dựng nông thôn mới gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

- Nâng cao năng lực đào tạo nghề theo hướng tiếp cận với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực; liên kết với các cơ sở đào tạo có uy tín trong và ngoài nước để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ các ngành năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo, du lịch. Xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi, những doanh nhân thành đạt về đầu tư và sinh sống tại tỉnh.

- Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đồng bộ trên các lĩnh vực, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu mới. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính đối với đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong thực thi công vụ; thực hiện tốt các quy định về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo. Kịp thời cụ thể hóa các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương phù hợp với tình hình địa phương.

- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tại chỗ đủ mạnh, đủ sức tiếp cận thành quả của nền kinh tế tri thức. Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo kết quả đầu ra và công khai minh bạch chi phí, kết quả nghiên cứu đề tài khoa học. Giám sát chặt chẽ điều kiện về môi trường đối với các dự án đầu tư, có cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích các cơ sở sản xuất đổi mới công nghệ thân thiện với môi trường; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao ý thức người dân, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường.

- Tập trung triển khai thực hiện một số chương trình trọng điểm để tạo ra năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: (1) Xây dựng đề án ưu tiên đầu tư các ngành kinh tế biển để trở thành động lực phát triển; (2) dự án ưu tiên xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bao gồm: giao thông, thủy lợi, đô thị, giáo dục, y tế; (3) xây dựng cơ chế thu hút, phát triển du lịch trọng điểm có đẳng cấp cao, khai thác có hiệu quả lợi thế của tỉnh; (4) cụ thể hóa đề án phát triển nguồn nhân lực, tập trung ưu tiên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh; (5) phối hợp với Trung ương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách đặc thù phục vụ xây dựng Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận; (6) xây dựng chương trình trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội miền núi; (7) xây dựng chương trình dự án thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với các sản phẩm đặc thù của tỉnh; (8) xây dựng đề án ứng phó với biến đổi khí hậu gắn với chủ trương tiết kiệm nước trong sản xuất, kinh doanh; chuyển mạnh diện tích đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây có hiệu quả; (9) xây dựng đề án phục hồi và trồng rừng mới ở lưu vực các hồ chứa nước trên địa bàn tỉnh.

5.3/ Về quốc phòng - an ninh và nội chính

Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân về quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Xây dựng tiềm lực chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ, quân sự, an ninh trong khu vực phòng thủ vững mạnh, đồng bộ, hoạt động hiệu quả gắn với tổ chức diễn tập phòng thủ phù hợp tình hình thực tiễn của địa phương. Xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh; kiềm chế tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Nâng cao trách nhiệm của tổ chức Đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm. Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phát huy tốt vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Làm tốt công tác tiếp nhận thông tin và xử lý khiếu nại, tố cáo; xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham nhũng, lãng phí.

5.4/ Phát huy hiệu quả vai trò các đoàn thể, thực hiện các phong trào hành động cách mạng

- Tăng cường mở rộng dân chủ trực tiếp gắn với hình thức phù hợp để Nhân dân giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; giám sát, phản biện xã hội trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cấp chính quyền, nhất là giám sát công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí và đạo đức, lối sống của đảng viên, cán bộ, công chức. Quan tâm bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ tập hợp, vận động, thuyết phục quần chúng.

- Phát huy truyền thống đoàn kết, thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo. Tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong mọi tầng lớp nhân dân nhằm huy động sức mạnh toàn dân góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Kịp thời nhân rộng gương người tốt, việc tốt trong các phong trào thi đua yêu nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các luận điệu kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo trong tỉnh.

II/ Thông qua báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII. Từ kinh nghiệm của khóa trước, Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XIII cần tiếp tục phát huy ưu điểm, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác cho nhiệm kỳ tới.

III/ Thông qua các báo cáo tổng hợp ý kiến của các đảng bộ trực thuộc đóng góp vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII có trách nhiệm tổng hợp ý kiến thảo luận tại Đại hội để bổ sung, hoàn chỉnh văn bản báo cáo Ban Chấp hành Trung ương theo quy định.

IV/ Thông qua kết quả bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII gồm 50 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Đức Thanh làm Bí thư Tỉnh ủy và kết quả bầu Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng gồm 14 đồng chí đại biểu chính thức và 2 đồng chí dự khuyết. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII có trách nhiệm báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Ban đảng Trung ương liên quan theo quy định.

V/ Tổ chức thực hiện

Đại hội giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII, căn cứ Báo cáo chính trị và Nghị quyết được Đại hội thông qua để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra.

Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà phát huy truyền thống cách mạng và những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua, nỗ lực khắc phục những hạn chế, yếu kém; triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp trên từng lĩnh vực cụ thể; tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong Nhân dân, phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.