Tìm hiểu các bản Hiến pháp Việt Nam

(NTO) Kể từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 05 bản Hiến pháp. Mỗi bản Hiến pháp đều đánh dấu một bước phát triển mới của đất nước. Việc tuân thủ các quy định của Hiến pháp ngày càng đòi hỏi cao hơn, cấp thiết hơn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà chúng ta đang tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

1. Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 09/11/1946 gồm 7 chương 70 điều. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam ra đời ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, lời nói đầu của Hiến pháp này gồm 238 từ; nhiệm vụ của đất nước và dân tộc được thể hiện rõ “nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước ta quy định nhân dân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, tôn giáo đều là chủ thể của quyền lực Nhà nước.

2. Do tình hình chiến tranh nên Hiến pháp năm 1946 chưa được Chủ tịch nước công bố, nhưng theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tùy tình hình cụ thể mà tinh thần của các quy định của Hiến pháp 1946 vẫn được thực hiện trên thực tế. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I, ngày 31/12/1959, Hiến pháp năm 1959 đã được thông qua gồm 10 chương 112 điều. Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp đầu tiên mang nhiều dấu ấn của việc tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù tên gọi chính thể không thay đổi so với Hiến pháp năm 1946 (Việt Nam dân chủ cộng hòa) nhưng nội dung tổ chức bên trong của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một tình thế mới. Lời nói đầu của bản Hiến pháp này gồm 1.276 từ, có đoạn ghi rõ: “Cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thế mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố Miền Bắc, đưa Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh để hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.

3. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, mở ra thời kỳ cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1959 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đất nước Việt Nam cần một bản Hiến pháp mới nhằm khẳng định những thành quả của Nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, đồng thời quy định việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18/12/1980 gồm có 12 chương 147 điều. So với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 tham khảo nhiều nội dung của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980 gồm 1.706 từ (được xem là bản Hiến pháp có lời nói đầu dài nhất thế giới ở thời điểm đó). Theo nhiều học giả, có thể nói rằng Hiến pháp năm 1980 là một bản Hiến pháp thể hiện một cách đầy đủ nhất những nhận thức cũ của Việt Nam về dân chủ của chủ nghĩa xã hội.

4. Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15/04/1992 gồm 12 chương 147 điều. Hiến pháp năm 1992 đã bỏ những quy định thể hiện cơ chế tập trung, kế hoạch, bao cấp của Hiến pháp năm 1980 để thúc đẩy công cuộc đổi mới của đất nước. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 gồm 539 từ có đoạn ghi “Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện do đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới” …

Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, có 24 nội dung sửa đổi, bổ sung gồm đoạn cuối của lời nói đầu Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi, bổ sung các điều 2, 3, 8, 9, 15, 16, 19, 21, 25, 30, 35, 36, 37, 59, 75, các điểm 4, 5, 7 và 13 điều 84; điểm 9 điều 91; các điểm 4, 6, 7, 9 và 10 điều 103; điểm 8 điều 112; điểm 2 điều 114; điều 116; 137; 140.

5. Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương 120 điều. Cũng tại kỳ họp này Quốc hội đã có Nghị quyết số 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo đó Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 giảm 01 chương 27 điều; bổ sung 01 chương mới (chương X về Hội đồng bầu cử quốc gia, kiểm toán Nhà nước), 12 điều mới (gồm các điều 19, 34, 41, 42, 43, 55, 63, 78, 111, 112, 117 và 118), giữ nguyên 07 điều (1, 49, 77, 86, 87, 91 và 97), sửa đổi bổ sung 101 điều. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 có 3 đoạn 290 từ. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, cụm từ “Nhân dân” được viết hoa để khẳng định và đề cao vai trò có tính quyết định của Nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đoạn cuối lời nói đầu Hiến pháp năm 2013 ghi rõ “Thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.