Những điểm mới trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm (2013)

Ngày 28-11-2013, tại Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa XIII, bản Hiến pháp năm 1992 bổ sung, sửa đổi (năm 2013), với tên gọi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được 97,59% số đại biểu quốc hội có mặt biểu quyết thông qua. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giảm 01 chương, 27 điều; giữ nguyên 7 điều; sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung 12 điều mới.

1. Về Lời nói đầu

So với Hiến pháp năm 1992, lời nói đầu Hiến pháp năm 2013 được viết khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, ý chí của Nhân dân Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Về Chương I: Chế độ chính trị

Về cơ bản, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể chế độ chính trị đã được xác định trong Hiến pháp năm 1992; đồng thời sửa đổi, bổ sung làm rõ, đầy đủ và sâu sắc hơn về nhiều vấn đề, nhất là những vấn đề sau:

Một là, bổ sung, phát triển nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước

Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định:

“1. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” để khẳng định địa vị của Nhân dân và bổ sung quy định “kiểm soát” quyền lực nhà nước theo tinh thần của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011). Đây là một trong những điểm mới của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc bổ sung này nhằm để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật, tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực.

Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định về Đảng

Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, quy định về Đảng trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ba bổ sung, phát triển quan trọng: (1) Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Và trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Đảng ta không có lợi ích tự thân.

(2) Bổ sung quy định “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Sự bổ sung này quy định bản chất, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân.

(3) Khẳng định không chỉ các tổ chức của Đảng mà còn quy định thêm về việc tuân thủ, thi hành Hiến pháp và pháp luật đối với mỗi đảng viên. Đảng viên phải tự giác gương mẫu, thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Ba là, quy định rõ hơn, đầy đủ hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Như vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ sung quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng “hình thức dân chủ trực tiếp”. Đây là hình thức đang là xu thế của Việt Nam và thế giới. Nhân dân làm chủ quyền lực nhà nước không chỉ thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.

Bốn là, bổ sung quy định về các tổ chức chính trị - xã hội

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyên, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (khoản 2, Điều 9).

3. Về Chương 2: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Ở chương này, có nhiều sửa đổi, bổ sung, đó là:

Thứ nhất, bổ sung tên chương và thay đổi vị trí của chương

Chương V, Hiến pháp năm 1992: “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) bổ sung nội dung “Quyền con người” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 có chương “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” để ở chương 2. Vấn đề này, hiến pháp nhiều nước trên thế giới cũng để ở chương 2. Kế thừa Hiến pháp năm 1946, tiếp thu tinh hoa thế giới, Hiến pháp sửa 2013 đưa Chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” lên thành Chương 2 là hoàn toàn hợp lý và đúng đắn.

Thứ hai, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, từ kết quả của quá trình phát triển, đổi mới đất nước, từ yêu phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên đã bổ sung một số quyền mới. Chương này có 36 điều trong tổng số 120 điều của Hiến pháp và có nhiều quy định mới, đó là:

- Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15);

- Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật (Điều 19);

- Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào trên cơ thể phải được sự đồng ý, của người được thử nghiệm (Điều 22);

- Quyền sở hữu tư nhân và quyền kế thừa được pháp luật bảo hộ (Điều 33);

- Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34);

- Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36);

- Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hoá, sử dụng các cơ sở văn hoá (Điều 41).

- Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42);

- Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 46).v.v…

4. Về Chương 3: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường

Chương III của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) được xây dựng trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.

Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế; gắn kết chặt chẽ, với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Điều 50). Các quy định của Chương III về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường mang tính nguyên tắc, khái quát ở tầm Hiến pháp, những vấn đề cụ thể sẽ do các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Về chế độ kinh tế

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo “ (khoản 1, Điều 51); “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân (Điều 52);

Về đất đai, Điều 54 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định:

1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo và pháp luật.

2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, được công nhận quyền sử đụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Chuyển sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.

3. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.

4. Nhà nước trưng dụng đất đai trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai”.

Trong chương này có bổ sung, quy định: “Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khai do nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, có pháp luật (khoản 1, Điều 55); “Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” (khoản 3, Điều 55).

- Về bảo vệ môi trường

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) bổ sung một điều quy định về môi trường.

“1. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo.

3. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại” (Điều 53).

5. Về Chương 4: Bảo vệ Tổ quốc

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) sửa đổi, bổ sung cả 5 điều, trong đó đáng chú ý nhất là 2 điều:

- Điều 64 quy định “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hoà bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự bổ sung quan trọng, thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, đó là “… góp phần bảo vệ hoà bình ở khu vực và trên thế giới”.

- Điều 70 quy định “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Điều 70 bổ sung ba nội dung quan trọng:

Một là, lực lượng vũ trang nhân dân không chỉ tuyệt đối trung thành với “Tổ quốc, nhân dân”, mà còn với “Đảng và Nhà nước”.

Hai là, lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ không chỉ “bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước”.

Ba là, bổ sung quy định “thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

6.Về Chương 5:Quốc hội

- Về vị trí, chức năng của Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có sửa đổi quan trọng là bỏ từ “duy nhất” trong cụm từ “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Bởi lẽ, việc lập pháp không chỉ do Quốc hội mà còn do nhân dân.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số bổ sung quan trọng sau:

Một là, quy định rõ, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với nhiệm vụ của Quốc hội. Khoản 3, Điều 84 Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc hội “Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Khoản 3, Điều 70, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định Quốc hội “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”, để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ.

Hai là, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách thức Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình toà án nhân dân, quy định rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần của cải cách tư pháp.

Ba là, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7, 9 Điều 75).

- Về đại biểu Quốc hội: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trong việc “tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội” (Điều 81). Đây là một quy định mới nhằm khẳng định quyền chủ động của đại biểu Quốc hội trong việc tham gia hoạt động trong Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội. Cùng với các quy định khác về quyền và trách nhiệm của đại biểu, quy định này nhằm bảo đảm cho đại biểu phát huy sở trường và năng lực, kinh nghiệm công tác của mình, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt nhiệm vụ là người đại biểu của Nhân dân.

7. Về Chương 6: Chủ tịch nước

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), cơ bản giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về Chủ tịch nước, có hai bổ sung quan trọng, đó là:

Thứ nhất, quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc “Thống lĩnh lực lượng vũ trang Nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” (khoản 5, Điều 88).

Thứ hai, trong mối quan hệ với Chính phủ, bổ sung quy định Chủ tịch có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 95).

8.Về Chương 7: Chính phủ

- Về vị trí, chức năng của Chính phủ: Bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp” (Điều 94) để thể hiện rõ quan điểm và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ: Có một số bổ sung quan trọng sau:

(1) Quy định Thủ tướng có nhiệm vụ, quyền hạn “Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia” (khoản 2, Điều 98); (2) bổ sung thẩm quyền “Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” (khoản 5, Điều 98).

Về bộ trưởng, các thành viên Chính phủ, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bổ sung quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (khoản 2, Điều 99).

9. Về Chương 8: Toà án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân

- Về Toà án Nhân dân: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã khẳng định: “Toà án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (khoản 1, Điều 102). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: Tòa án Nhân dân “thực hiện quyền tư pháp”, và đã viết khái quát hệ thống tổ chức của Toà án Nhân dân gồm “Toà án Nhân dân tối cao và các Toà án khác do luật định” (koản 2, Điều 102). Ngoài việc tiếp tục khẳng định và quy định khái quát về nhiệm vụ của Toà án Nhân dân là bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ sung nhiệm vụ quan trọng của Toà án Nhân dân là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” (khoản 3, Điều 102).

Theo yêu cầu cải cách tư pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và nhấn mạnh một số nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của Tòa án Nhân dân, đó là “Nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà được bảo đảm” (khoản 5, Điều 102); đồng thời bổ sung nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”( khoản 6, Điều 102).

- Về Viện kiểm sát Nhân dân: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định : “Viện kiểm sát Nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp (khoản 1, Điều 107). “Viện kiểm sát Nhân dân gồm Viện kiểm sát Nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 107). Bổ sung nhiệm vụ của Viện kiểm sát Nhân dân là “bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3, Điều 107). Đây là một quy định mới phù hợp với chức năng Viện kiểm sát được giao đảm nhiệm. Bởi vì, Viện kiểm sát không chỉ có vai trò, trách nhiệm là một bên (bên buộc tội) như một số nước, mà còn có trách nhiệm chống làm oan người vô tội, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tư pháp.

10. Về Chương 9: Chính quyền địa phương

- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã đổi tên Chương IX “Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân” ở Hiến pháp năm 992 thành Chương: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan nhà nước ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Mặt khác, nội hàm của Chương này không chỉ quy định về Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể xã hội ở địa phương.

- Về đơn vị hành chính lãnh thổ: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định: “ Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” (khoản 1 điều 110). Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định (khoản 2, Điều 110).

- Về tổ chức chính quyền địa phương: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (khoản 1, Điều 111). “Cấp chính quyền phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định (khoản 2, Điều 111).

11. Về Chương 10: Hội đồng bầu cử quốc gia, kiểm toán nhà nước

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), bổ sung hai điều mới quy định về hai thiết chế hiến định độc lập vào Chương X, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.

- Về Hội đồng bầu cử quốc gia: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), bổ sung thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 117) nhằm thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 về việc “Tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia với mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng để nhằm thực hiện cho được nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo cơ chế để Nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình. “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp” (khoản 1, Điều 117), nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân.

- Về kiểm toán Nhà nước: Kiểm toán Nhà nước là cơ quan có vai trò quan trọng trong quản trị quốc gia, thông quá các hoạt động nghiệp vụ để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Với vị trí, chức năng quan trọng của cơ quan này, hiện nay đa số các nước trên thế giới đều có quy định trong hiến pháp về cơ quan kiểm toán nhà nước, theo đó ở mức độ, liều lượng khác nhau nhưng đều ghi nhận nguyên tắc hoạt động độc lập và không chịu can thiệp từ các thiết chế quyền lực khác của Kiểm toán nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu đó, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã bổ sung Điều 118 quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán Nhà nước để tăng cường vị thế và trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia.

12. Về Chương 11: Hiệu lực của Hiến pháp và Sửa đổi Hiến pháp

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã quy định rõ quy trình sửa đổi Hiến pháp như sau:

- Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (khoản 1, Điều 120).

- Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp (khoản 2, Điều 120).

- Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp (khoản 3, Điều 124).

- Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định (khoản 4, Điều 120).

Tóm lại, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế, có nhiều điểm mới rất quan trọng liên quan đến sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, thể hiện rất rõ quyền lực của Nhân dân.