Văn hóa Raglai – bảo tồn và phát triển!

(NTO) Trong khuôn khổ Ngày hội Văn hóa dân tộc Raglai – Ninh Thuận 2013, Ban tổ chức ngày hội đã tổ chức buổi tọa đàm “Văn hóa Raglai-bảo tồn và phát triển”. Tham dự buổi tọa đàm có Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh, các nhà nghiên cứu văn hóa Raglai và một số già làng tiêu biểu đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Thuận…

Dân tộc Raglai hiện có khoảng 130.000 người. Sinh sống chủ yếu trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Thuận và một số ít tại tỉnh Lâm Đồng. Trong đó, tỉnh Ninh Thuận chiếm gần 60% - với gần 60.000 người sinh sống.

Dân tộc Raglai có không gian sinh tồn rộng lớn, có bề dày lịch sử, văn hóa. Trong lịch sử của mình, dân tộc Raglai không chỉ chống chọi với các thế lực thiên tai, địch họa để sinh tồn mà còn góp công sức trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, thống nhất nước nhà. Nhiều người con của đồng bào dân tộc Raglai đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận công lao, phong tặng anh hùng như Pinăng Tắc (Ninh Thuận) – người đã làm bẩy đá tiêu diệt kẻ thù, Ama Tới (Khánh Sơn, Khánh Hòa) – người bắn cháy máy bay địch bằng súng trường…

Nghệ nhân Tà Yên Kinh ở xã Ma Nới (huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) chế tác khèn bầu.

Năm 1964-1965, chữ viết của người Raglai được hình thành; từ đây, mở ra một nền văn hóa đồ sộ suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Raglai. Đặc biệt là các tác phẩm sử thi, truyện cổ, các làn điệu dân ca, luật tục… Trong đó, nhiều tác phẩm đã được các nhà nghiên cứu sưu tầm, biên soạn với độ dài lên tới hàng ngàn trang.

Không những vậy, dân tộc Raglai có một kho tàng lễ hội dân gian phong phú và độc đáo, trở thành nét văn hóa hết sức đặc sắc của đồng bào Raglai. Đáng chú ý như lễ bỏ mả, lễ hội ăn đầu lúa mới, lễ cưới, lễ cầu mưa thuận gió hòa, lễ trưởng thành, lễ xuống giống… Trong đó, lễ bỏ mả của đồng bào Raglai ở xã Ba Cụm Bắc (Khánh Sơn, Khánh Hòa) đã được bộ VHTTDL công nhận là di sản phi vật thể.

Đồng bào dân tộc Raglai còn có “bộ sưu tập” các nhạc cụ hết sức độc đáo như đàn đá, mã la (cồng chiêng), các loại đàn chế từ lồ ô (tre, nứa) như sáo Talakung, kèn môi, đàn môi, kèn Gadet, đàn Chapi, kèn bầu Sarakel, kèn bầu Kupoăt… trong đó, đàn chapi đã được nhạc sĩ Trần Tiến đưa vào tác phẩm “Giấc mơ Chapi” hết sức nổi tiếng…

Tuy có một kho tàng lịch sử, văn hóa, nhạc cụ đồ sộ như vậy, nhưng cũng như nhiều dân tộc ít người khác, hiện các bản sắc văn hóa của đồng bào Raglai không có người kế thừa và đang dần mai một. Đặc biệt là vấn đề chữ viết, hát - kể chuyện sử thi, truyện cổ hay cách chế tác, sử dụng các loại nhạc cụ... 

Đội nghệ nhân tộc họ Pi- năng ở xã Phước Thắng (huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận)
biểu diễn đặc sắc nhạc cụ mã la. Ảnh: Sơn Ngọc

Theo ông Chamaléa Thơm, xã Phước Chiến (Thuận Bắc), hiện con em Raglai chỉ thích nghe các loại nhạc “xập xình”, thích ăn mặc theo mốt chứ không thích nghe các loại nhạc, mặc các loại trang phục của dân tộc mình; hầu hết thanh thiếu niên hiện không biết chế tác, sử dụng được các loại nhạc cụ dân tộc. Đáng báo động hơn đó là vấn đề về chữ viết. Theo bà Mấu Thị Bích Phanh, chữ viết không chỉ là phương tiện lưu giữ mà còn là chìa khóa để mở ra kho tàng văn hóa của một dân tộc. Tuy nhiên, hiện còn rất ít người đồng bào Raglai còn biết đọc, viết chữ của dân tộc mình…

 Nhiều lễ hội của đồng bào đang bị dần mai một do đồng bào không có kinh phí để tổ chức, hoặc đã bị lai căng, lợi dụng như những trò mê tín dị đoan; thế hệ trẻ không biết dựng nhà sàn truyền thống, không biết ý nghĩa của cây nêu, thậm chí là không biết ý nghĩa của các điệu mã la trong từng lễ hội…

Trước thực trạng trên, các nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều biện pháp nhằm lưu giữ những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc raglai. Trong đó, việc lưu giữ phải bắt nguồn từ gốc, từ đời sống, sinh hoạt của đồng bào, không qua sân khấu hóa. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, mở các lớp dạy sử thi, đánh mã la và đặc biệt là chữ viết cho thanh thiếu niên tại các địa phương. Trong đó, có việc hỗ trợ trong nghiên cứu và kinh phí để bà con tổ chức lễ hội như chính quyền tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận đang làm…

Tại buổi tọa đàm, Giáo sư-Tiến sĩ Tô Ngọc Thanh Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam chia sẻ, muốn bảo tồn được văn hóa của đồng bào, trước hết, chúng ta phải hiểu đồng bào, hiểu được các lễ hội và những tâm tư, nguyện vọng mà đồng bào đã gửi gắm vào lễ hội… và ứng xử với nó bằng văn hóa. Cần phải hiểu đồng bào sâu hơn mới tìm ra cách bảo tồn và phát triển văn hóa của đồng bào; đặc biệt là phải hiểu được ngôn ngữ, chữ viết. “Ngôn ngữ, chữ viết là toàn bộ văn hóa của dân tộc đó. Vì vậy, muốn bảo tồn văn hóa Raglai, chúng ta phải bảo tồn chữ viết của đồng bào Raglai”, giáo sư Thanh nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, giáo sư cũng cho rằng, xã hội đang thay đổi, vì vậy, mọi cái trong đời sống - xã hội cũng cần thay đổi. Tuy nhiên, có những cái chất chứa tinh thần, tinh hoa độc đáo, đặc sắc của một dân tộc thì cần phải được lưu giữ. Tuy nhiên, cũng không nên lấy văn hóa của dân tộc này áp đặt cho dân tộc khác, thời kỳ này áp đặt cho thời kỳ khác… mà cần tạo điều kiện cho đồng bào gìn giữ văn hóa của dân tộc mình. Bên cạnh việc hỗ trợ của chính quyền, có thể kêu gọi xã hội hóa để gây dựng lễ hội; tuy nhiên phải trả lễ hội lại cho đồng bào làm, lễ hội bắt nguồn từ cuộc sống phải trả nó lại với cuộc sống, có như vậy thì công tác bảo tồn mới có hiệu quả…