Giải đáp pháp luật về thi đua, khen thưởng

Hỏi: Ông Nguyễn Văn Trạch, thị trấn Tân Sơn, huyện Ninh Sơn hỏi: Ông là đội viên du kích xã từ tháng 5/1952 ở vùng địch tạm chiếm thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, đầu năm 1954 là Tiểu đội trưởng cho đến tháng 6/1954, tháng 7/1954 được điều qua Quân đội (Trung đoàn 271), tháng 9/1954 cùng đơn vị tập kết ra miền Bắc; đã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, nay có được đề khen thưởng thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp hay không? Nếu được thì mức khen như thế nào?

Trả lời: Theo qui định tại điểm 5, Mục II, Thông tư số 15-TTg ngày 12/01/1961 của Phủ Thủ tướng thì một trong những đối tượng được xét khen thưởng thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp là:

“Cán bộ chỉ huy và đội viên các đội du kích do Chính quyền địa phương tổ chức và lãnh đạo. Các đội viên du kích nói đây bao gồm cả các đội tự vệ thành và tự vệ khu phố của các thành phố, thị xã và thị trấn”.

Theo qui định tại điều 5, Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Pháp ban hành theo Nghị quyết số 06-/NQ/TVQ ngày 29/8/1960 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì mức khen cho đội viên, cán bộ chỉ huy du kích như sau:

“Huy chương Kháng chiến hạng Nhất tặng thưởng cho: Công nhân viên thuộc các ngành chính quyền và đoàn thể từ huyện trở lên, đội viên thanh niên xung phong đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên hoặc từ ba năm trở lên nếu là ở hậu địch và các đội viên du kích đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên hoặc từ ba năm trở lên nếu là ở hậu địch”.

Theo qui định trên thì ông đủ tiêu chuẩn, điều kiện đề nghị Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Pháp hạng Nhất. Theo qui định hiện hành của Nhà nước về nơi trình khen, đề nghị ông liên hệ với địa phương nơi ông đã tham gia kháng chiến chống Pháp trước đây (thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị) để làm hồ sơ trình khen thưởng.