Sửa và bổ sung hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 31/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.

Nghị định mới sửa đổi bổ sung các khoản 1,2 và 4 điều 2; khoản 1 điều 6; điều 8; khoản 1 điều 9; khoản 2 điều 16; khoản 2 điều 18; điều 20 và khoản 2, 3 điều 20; điều 22, 23; khoản 2,3 điều 27, điểm a khoản 4 điều 27; điều 30; khoản 2 điều 32; điểm 1 khoản 3, khoản 6 điều 33; điểm a khoản 1, khoản 2 điều 38; điểm b khoản 1, khoản 3 điều 39.

Theo đó, Ủy ban Nhân dân các cấp phải bảo đảm để mọi trẻ em 6 tuổi đều được vào học lớp một; thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở; củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và chống mù chữ.

Hàng năm, cơ sở giáo dục và đơn vị hành chính đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở phải tiến hành tự kiểm tra theo tiêu chuẩn quy định về phổ cập giáo dục; báo cáo bằng văn bản với cấp có thẩm quyền công nhận đạt chuẩn.

Điều 8 được sửa đổi bổ sung như sau, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; quyết định duyệt và chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa bằng chữ nổi, bằng tiếng dân tộc và sách giáo khoa cho học sinh trường chuyên biệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa.

Khoản 2 điều 16 về cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân được sửa đổi bổ sung gồm 3 nhóm. Nhóm 1 là nhóm trẻ, nhà trẻ; các lớp độc lập gồm: lớp mẫu giáo, lớp xóa mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật, khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Nhóm 2 là trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học. Nhóm 3 là các viện nghiên cứu khoa học được đào tạo trình độ tiến sỹ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sỹ.

Nghị định mới cũng nêu rõ cơ sở giáo dục đại học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sỹ có quyền phong tặng danh hiệu tiến sỹ danh dự. Bằng tiến sỹ danh dự phải ghi rõ danh hiệu "tiến sỹ danh dự" và không ghi "học vị tiến sỹ," không ghi ngành đào tạo.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2011.

(Theo Vietnam+)