Cây Dâu

Toàn bộ các bộ phận của cây dâu đều dùng làm thuốc. Lá dâu được gọi là: Tang diệp. Quả dâu gọi là: Tang thầm. Vỏ (thân rễ) cây dâu gọi là: Tang bạch bì. Cây mọc ký sinh trên cây dâu: Tang ký sinh. Tổ bọ ngựa trên cây dâu: Tang phiêu tiêu. Sâu dâu: con sâu nằm trong thân cây dâu.

Mô tả cây

Cây dâu là một cây có thể cao tới 15m nhưng thường hái lá nên chỉ cao 2-3m. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia thành 3 thùy, có lá kèm, đầu lá nhọn hay hơi tù, phía cuống hơi tròn hoặc hơi bằng, mép có răng cưa to. Từ cuống lá tỏa ra 3 gân rõ rệt. Hoa đơn tính, khác gốc, hoa đực mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả bế bao bọc trong các lá đài, mọng nước thành một quả phức màu đỏ, sau đen sẫm. Quả có thể ăn được và làm thuốc.

Công dụng và liều dùng

Tang bạch bì làm thuốc lợi tiểu, dùng trong bệnh thủy thũng, chữa ho lâu ngày, hen, ho có đờm, băng huyết, chữa sốt, chữa cao huyết áp. Liều dùng hằng ngày 6-18g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

Tang ký sinh bổ gan thận, chữa đau lưng, đau mình, an thai, sau sinh ít sữa. Liều dùng 12-20g dưới dạng thuốc sắc.

Tang phiền tiêu lợi tiểu tiện. Chữa tiểu tiện nhiều lần, di tinh, liệt dương, bạch đới, trẻ con đái dầm. Liều dùng 6-12g.

Sâu dâu chữa bệnh trẻ con đau mắt, nhiều dử, nhiều nước mắt. Cả con sâu nướng ăn hoặc ngâm rượu.

Theo tài liệu cổ, lá dâu có vị đắng, ngọt, tính hàn, vào hai kinh can và phế. Có tác dụng tán phong, thanh nhiệt lương huyết sáng mắt, dùng chữa phong ôn biểu chứng, lao nhiệt sinh ho, đầu nhức mắt đỏ, nước mắt chảy nhiều, hoa mắt.

Tang ký sinh: Vị đắng tính bình, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, an thai, làm cho xuống sữa. Dùng chữa gân xương đau nhức, động thai, mất sữa sau sinh, lưng mỏi đau.

Cành dâu, (tang chi) vị đắng, tính bình, vào kinh can. Có tác dụng khứ phong thấp, lợi quan tiết (khớp xương), dùng chữa phong hàn thấp tì, đau nhức, thủy khí, cước khí, chân tay co quắp.

Tang bạch bì: Vị ngọt, tính hàn, vào kinh phế. Có tác dụng tả phế hành thủy, chỉ thấu bình xuyễn, dùng chữa phế nhiệt sinh ho, ho ra máu, thủy thũng, bụng trướng. Những người phế hư nhưng không hỏa và ho hàn thì không dùng được.

Tang thầm (quả dâu) vị ngọt chua tính ôn, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can, thận, nuôi máu, khứ phong, dùng chữa bệnh tiêu khát, loa lịch, mắt có màng, tai ù, huyết hư, tiện bí. Những người đại tiện tiết tả không dùng được.

Tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu) có vị ngọt, mặn, tính bình, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng ích thận, cố tinh dùng chữa di tinh, đái són, đái nhiều lần, kinh nguyệt bế, những người âm hư nhiều hỏa, bàng quang nóng không dùng được.

Bài thuốc có các vị thuốc lấy từ cây dâu

1. Tang bạch bì:

Chữa ho ra máu: Tang bạch bì 600g. Ngâm nước vo gạo 3 đêm, tước nhỏ, cho thêm 250g gạo nếp. Sao vàng, tán nhỏ. Trôn đều. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần 8g chiêu bằng nước cơm.

Ho lâu năm: Vỏ cây dâu, vỏ rễ cây chanh. Hai vị bằng nhau, mỗi thứ 10g sắc uống trong ngày.

Trẻ con ho có đờm: Tang bạch bì 4g sắc với nước cho uống.

Rụng tóc: Tang bạch bì giã dập, ngâm nước, đun sôi nửa giờ, lọc lấy nước gội đầu.

2. Tang diệp

Chữa nôn ra máu: Lá dâu cuối màu, sao vàng sắc uống. Ngày uống 12-16g.

Mụn nhọt lâu ngày không liền miệng: Lá dâu sao vàng tán nhỏ, rắc vào mụn đã rửa sạch.

3. Tang ký sinh

Động thai đau bụng: Tang ký sinh 60g, giao (hoặc cao ban long) nướng thơm 20g, ngải diệp 20g, nước 3 bát 600ml, sắc còn một bát 200ml, chia nhiều lần uống trong ngày.

4. Tang thầm

Chữa tràng nhạc: Tang thầm (loại quả đã chín đen) 2 bát đầy, cho vào vải vắt lấy nước, cô thành cao mềm. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.

Tóc không mọc, tóc bạc: Quả dâu ngâm nước, lọc lấy nước xát vào đầu.

5. Tang phiêu tiêu

Động thai, bí tiểu tiện: Tang phiêu tiêu nướng vàng tán nhỏ, ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g.