Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên

(NTO) Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá X đã ban hành Nghị quyết số 22 về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Sau hơn 3 năm thực hiện, đến nay toàn tỉnh đã có 456 Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), trong đó Đảng bộ cơ sở (ĐBCS) 128 có 987 chi bộ trực thuộc (CBTT) và 328 chi bộ cơ sở (CBCS). So với năm 2008 tăng 55 TCCSĐ và 274 CBTT.

Trong những năm qua công tác xây dựng TCCSĐ ở cơ sở đã có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhiều TCCSĐ đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên; góp phần nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng quê hương ngày càng phát triển.

Tp. Phan Rang -Tháp Chàm đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đô thị phấn đấu
đạt chuẩn đô thi loại II vào năm 2015. Ảnh: Văn Miên

Đối với xã, phường, trị trấn có 65/65 TCCSĐ đều là ĐBCS trong đó có 396 thôn, khu phố đa số là chi bộ trực thuộc (CBTT). Bên cạnh các chi bộ thôn, khu phố còn có chị bộ trường học, chi bộ quân sự, chi bộ cơ quan, một số phường, thị trấn có chi bộ Công an. Với gần 6000 đảng viên chiếm 50% tổng số đảng viên trong toàn tỉnh. Kết quả đánh giá chất lượng năm 2010 có 34/65 TCCSĐ đạt tiêu chuẩn trong sạch - vững mạnh chiếm 52,31% (tăng 24% so với năm 2008); 23/65 TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ, chiếm 35,38 %( giảm 23 % so với năm 2008); 08/65 TCCSĐ, hoàn thành nhiệm vụ chiếm 12,31 % ( tăng 1% so với năm 2008); không có TCCSĐ yếu kém.

Loại hình TCCSĐ hành chính, sự nghiệp, có số lượng đông nhất 274 TCCSĐ chiếm 60 % tổng số TCCSĐ toàn tỉnh với gần 3.400 đảng viên. Qua đánh giá chất lượng năm 2010 có 79,8 % đạt tiêu chuẩn TCCSĐ trong sạch - vững mạnh; 13,8 % TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ; 1,8 % TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ và 1,09 % TCCSĐ yếu kém so với năm 2008 TCCSĐ yếu kém giảm 1 đơn vị.

Loại hình TCCSĐ lực lượng vũ trang có 63 Chi, đảng bộ cơ sở trong đó ĐBCS 22 với 109 CBTT. Đánh giá chất lượng năm 2010 có 50 TCCSĐ đạt danh hiệu TCCSĐ trong sạch vững mạnh, chiếm 79,37 %; không có TCCSĐ yếu kém.

Loại hình doanh nghiệp có 56 TCCSĐ; có 78 % TCCSĐ đạt tiêu chuẩn trong sạch - vững mạnh trong năm 2010. Không có TCCSĐ yếu kém. Hiện nay Đảng bộ khối Doanh nghiệp tỉnh quản lý có 34 TCCSĐ, còn lại do huyện, thành uỷ quản lý.

Sau khi có Nghị quyết 22 của Trung ương, Tỉnh uỷ đã tập trung chỉ đạo, củng cố xây dựng, sắp xếp TCCSĐ cho phù hợp như đã thực hiện chuyển giao, kiện toàn một số TCCSĐ và các tổ chức đoàn thể quần chúng của các công ty cổ phần, doanh nghiệp, đơn vị hành chính cho phù hợp hệ thống tổ chức hành chính nhà nước; gắn củng cố TCCSĐ với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, tạo được những chuyển biến tích cực. Nhiều TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn đã tích cực triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đổi mới cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo, chăm lo đời sống nhân dân. Các TCCSĐ trong đơn vị hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp đã lãnh đạo cán bộ đảng viên, quần chúng, người lao động phát huy tính chú động sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm, hăng say trong lao động sản xuất, công tác, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần làm ra nhiều của cải, sản phẩm tốt phục vụ cho sự phát triển của địa phương. Đối với TCCSĐ trong lực lượng vũ trang đã thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của cấp trên, thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, xây dựng đơn vị chính quy, kỷ luật nghiêm minh…

Công tác phát triển đảng viên mới được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ đạo. Trong 3 năm ( 2008 – 2010) toàn tỉnh kết nạp được 2.179 quần chúng ưu tú vào Đảng, tỉ lệ là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, giáo viên, người dân tộc thiểu số ngày càng tăng đã góp phần làm cho cơ cấu đội ngũ đảng viên thay đổi theo hướng tích cực, đã xoá được 6/11 thôn, khu phố chưa có tổ chức Đảng hoặc đảng viên.

Về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách, công chức cấp cơ sở đã có nhiều chuyển biến tiến bộ với gần 1.300 cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã, đã có 100% đạt chuẩn về trình độ học vấn theo quy định của Bộ Nội vụ; là đảng viên đạt 70% ; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt 60%, trong đó cán bộ công chức đạt chuẩn về chuyên môn 86,80%. Đội ngũ này đã có những đóng góp đáng kể trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở, nhiều đồng chí có kinh nghiệm trong quản lý điều hành, lập trường tư tưởng vững vàng kiên định, được nhân dân tín nhiệm cao.

Bên cạnh những chuyển biến nêu trên năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số TCCSĐ còn bộc lộ những hạn chế như về tổ chức và phương thức hoạt động còn lúng túng; tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng chưa thường xuyên; vai trò tiền phong gương mẫu của số ít đảng viên bị hạn chế; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thật sự nghiêm túc. Công tác phát triển đảng viên mới khó khăn, một số trường học, doanh nghiệp, một số thôn do mới chia tách, thành lập mới chưa có tổ chức Đảng, đảng viên và gần 50 % cán bộ công chức cấp xã chưa phải là đảng viên.

Để khắc phục những hạn chế trên, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các cấp uỷ đảng và mỗi đảng viên cần quán triệt sâu sắc, nghiêm túc công việc đầu tiên, trước hết đó là tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong nội bộ Đảng và trong xã hội, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân nhất là những vấn đề bức xúc để có biện pháp giải quyết kịp thời. Phối hợp với giáo dục, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước trong nhân dân, nhất là cho thế hệ thanh thiếu niên, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức tư tưởng và hành động đồng thời xây dựng mối đoàn kết thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, chú ý việc “làm theo”. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ. Từng bước thực hiện tốt “4 hoá” :Trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, thể chế hoá, nhất thể hoá chức danh cán bộ, tạo bước chuyển biến có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Đồng thời đồng bộ hoá các biện pháp để xây dựng Đảng, củng cố tổ chức cơ sở đảng; dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở. Tăng cường công tác tạo nguồn phát triển đảng viên mới, khắc phục tình trạng các thôn chưa có đảng viên. Thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đổi mới phương thức chỉ đạo đối với cơ sở theo hướng gần dân, đi sâu đi sát cơ sở, tăng cường làm việc trực tiếp với cơ sở, đối thoại trực tiếp với dân, kịp thời kiểm tra, giúp đỡ và tháo gỡ những khó khăn cho cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “ tỉnh nắm chắc từng xã; huyện nắm chắc từng thôn; xã nắm chắc từng hộ gia đình” để tạo sự thống nhất trong lãnh đạo và tăng cường sự kiểm tra, giám sát về công tác xây dựng Đảng ở cơ sở.