Hồ Chí Minh - tấm gương đạo đức sáng ngời

(tiếp theo và hết)

2. Tấm gương đạo đức sáng ngời trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

Trong cuộc hành trình 30 năm tìm đường, nhận đường và chọn đường đi cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ chủ nghĩa Mác, đã đến với nguồn sáng Lê-nin, tìm thấy trong “Luận cương về quyền tự quyết của các dân tộc” do V.I. Lê-nin khởi thảo con đường mà bấy lâu nay Người vẫn hằng mong mỏi tìm kiếm. Người đã nhận thấy chân lý, nhận ra “con đường giải phóng” - “con đường cứu sống chúng ta”, “cái cẩm nang chỉ dẫn hành động”. Ánh sáng từ Mác – Lê-nin đến Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới đã tạo nên bước ngoặt trong cuộc hành trình lịch sử của Người. Từ một người yêu nước, thương dân vô hạn, với tinh thần dân tộc sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc trở thành một người cộng sản, thấm nhuần lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, suốt đời tranh đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp vĩ đại ấy thúc đẩy Người dấn thân và hy sinh, một lòng một dạ vì sự nghiệp cách mạng, mà sâu xa là vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân, từ dân tộc mà đến với thế giới nhân loại, từ yêu nước mà đến với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, tranh đấu quên mình, hy sinh cả cuộc sống riêng tư vì sự nghiệp mà Người tự nhủ và căn dặn những người cách mạng - những học trò xuất sắc của Người thuộc thế hệ đầu tiên lập Đảng. Cả cuộc đời và sự nghiệp, Hồ Chí Minh đã làm tất cả vì Dân, vì Nước; trong gian lao khó nhọc, cả lúc hiểm nguy thử thách khi bị giam cầm, đọa đầy trong lao tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, mất liên lạc với Đảng, với dân, Người vẫn một lòng kiên trinh với lý tưởng, giữ trọn niềm tin với nghị lực phi thường vượt lên hoàn cảnh. Trước sau như một: “Cả đời tôi chỉ có mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”(3). Đồng thời, Người không ngừng phấn đấu với một ham muốn tột bậc làm cho Tổ quốc được độc lập, dân tộc được tự do, đồng bào có hạnh phúc - hạnh phúc bình dị mà vĩ đại: có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Tấm gương đạo đức ấy không gì có thể mờ phai.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, là đạo đức chiến đấu và hy sinh, từ dấn thân đến dâng hiến, suốt một đời gần dân, vì dân, thấu hiểu cuộc sống của dân và thấu cảm lòng dân. Trả lời nhà báo Cộng sản Cu Ba, Người nói: “Tôi tự nguyện dâng hiến đời tôi cho dân tộc” và “Mỗi người có một nỗi đau riêng, mỗi gia đình có một nỗi khổ riêng. Gộp tất cả nỗi đau khổ đó lại thành ra nỗi đau khổ của bản thân tôi!”. Lời nói chân thành tự trái tim Người có sức lay động muôn triệu trái tim.

Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên và công chức “dân là chủ và dân làm chủ”. Phải dân chủ chứ không được “quan” chủ, là đầy tớ công bộc của dân chứ không lên mặt “quan” cách mạng. Theo Người, đối với nhân dân của mình, họ là những người chủ đích thực chứ không phải thần dân, và Người “không phải là vua”(4) mà là đầy tớ, công bộc của dân, “kính trọng lễ phép với dân”, “gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, tin dân để thương dân và suốt đời chỉ vì dân mà sống mà tranh đấu”. Bày tỏ lòng biết ơn, lời cảm ơn trước tình cảm thương mến của mọi tầng lớp nhân dân dành cho mình, Người nói: “Từ trước đến giờ tôi đã là người của đồng bào thì từ giờ về sau, tôi mãi mãi thuộc về đồng bào”. Đó là điển hình cho tình yêu, sự thủy chung của lãnh tụ vì dân.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ Người nêu gương đạo đức trong tranh đấu, từ chống giặc ngoại xâm đến chống “giặc nội xâm” mà Người còn nêu gương suốt đời trong thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Là Chủ tịch Nước, ở cương vị nguyên thủ quốc gia, đồng thời là Chủ tịch Đảng(5), Người là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, tuyệt đối không màng danh lợi, đứng ngoài vòng danh lợi, chỉ luôn coi mình là một người lính vâng lệnh quốc dân đồng bào, làm tròn nhiệm vụ do dân ủy thác. Khi chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Người đưa ra sáu vấn đề cấp bách phải làm ngay để lo cuộc sống cho dân(6). Đặc biệt, Người chủ trương: “mở cuộc vận động kêu gọi các thành viên chính phủ” nhịn ăn để lấy gạo nuôi dân, cứ 10 ngày nhịn một bữa không chết đâu nhưng dân thì có bữa cơm bữa cháo, mỗi bữa là một bơ gạo, góp chung lại cứu dân nghèo và tôi xin làm trước tiên”. Người còn cẩn thận đến mức nếu đến ngày quy định nhịn ăn mà Người có việc phải tiếp khách thì Người sẽ nhịn bù vào hôm sau. Đã nói là làm, từ việc nhỏ đến việc lớn, lời nói đi đôi với việc làm, làm gương và nêu gương cho mọi người. Tấm gương ấy của Người làm cảm động muôn người; là tấm gương sống, quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Bởi thế, Chính phủ do Người đứng đầu thực sự là Chính phủ, là Nhà nước của dân, vì dân, hành động vì dân bởi rất mực thương dân.

Đạo đức Hồ Chí Minh có sức lay động, cảm hóa muôn triệu đồng bào trong nước và thu hút sự ngưỡng mộ, kính trọng của bạn bè quốc tế. Ngày đầu tiên trong hoạt động của Nhà nước (3-9-1945), Người đã có thư gửi quốc dân đồng bào, công bố lịch tiếp dân, tiếp đại biểu các giới đồng bào và các đoàn thể, “từ văn hóa giới, công giáo, công hội, thương giới, thanh niên, phụ nữ, công chức, Phật giáo, cho đến nông hội, Hoa kiều và các cháu nhi đồng”(7). Trong đó, nêu rõ: “Xin gửi thư nói trước để tôi sắp xếp thời giờ rồi trả lời bà con, khỏi mất thời giờ chờ đợi mất công”. Người nêu yêu cầu “mỗi đoàn không quá mười vị, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ”(8). Tôn trọng dân chủ, thiết tha lắng nghe tiếng nói của người dân như vậy, đó thực sự là đạo đức, là văn hóa đạo đức trong chính trị của Hồ Chí Minh.

Hiếm có vị chủ tịch nước nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sống đạm bạc, đến mức khắc khổ trong cái ăn, cái mặc hằng ngày; bởi thương dân mà tiết kiệm, bởi lãng phí là không thương dân, bởi mỗi đồng tiền bát gạo mà ta tiêu dùng đều do mồ hôi, nước mắt của dân làm ra. Người lên án gay gắt và nghiêm trị theo luật pháp những hành vi tham ô, tham nhũng, coi đó là bất liêm, bất chính, bất nghĩa, phải trừng trị như trừng trị một tội ác. Người nói cho cán bộ, công chức rõ, đồng bào đem mồ hôi nước mắt để làm ra tiền của, để trả lương cho ta. Nếu lười biếng và vô trách nhiệm trong công việc hàng ngày là lừa gạt dân chúng. Người lấy mình làm gương, chú trọng giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên, công chức và rèn luyện kỷ luật công vụ, xiết chặt kỷ cương, nề nếp hành chính, sớm thành lập thanh tra chính phủ để kiểm soát hoạt động của bộ máy và hành vi công chức. Những biện pháp ấy đều chỉ vì mục đích “phục vụ dân” và “bảo vệ dân”.

Tấm gương Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở đức trung thực, khiêm tốn, vị tha, nhân ái, khoan dung, thấm nhuần chất nhân văn trong tham chính và cầm quyền, trong ứng xử với người, với việc, mà cao hơn tất cả là tình thương yêu dành cho dân chúng mãi không bao giờ thay đổi. Khi gửi thư chúc mừng thượng thọ một cụ già 80 tuổi (lúc đó Người đã 60 tuổi) mà Người xưng hô là cháu: “Cháu xin thay mặt Chính phủ chúc thọ Cụ. Chúc Cụ sống lâu muôn tuổi để cùng con cháu kháng chiến kiến quốc tới ngày thắng lợi”. Người lấy tiền tiết kiệm của mình để mua nước ngọt gửi ra trận địa cho bộ đội đang trực chiến giữa những trưa hè nóng nực. Người viết thư loan báo cho đồng bào rõ: để tỏ lòng biết ơn các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và những gia đình có công với nước, Người sẽ nhận tất cả con liệt sĩ là con mình, v.v. Mỗi một chiến sĩ ngã xuống trên chiến trường, Người như đứt từng khúc ruột. Người rộng lòng bao dung khoan thứ, kiềm chế ngay cả những lúc Người không hài lòng trước những việc làm sai, những người làm hỏng. Người căn dặn “phê bình việc chứ không phê bình (với ý xúc phạm) người”. Trong Di chúc, Người căn dặn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phê bình có lý có tình, ứng xử có tình có nghĩa,... Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí và không quên gửi lời chào bạn bè quốc tế và nhân dân thế giới, v.v.

Một con người, một nhân cách, với tấm gương đạo đức sáng ngời như thế mà lại tự thấy mình chưa xứng đáng, từ chối nhận huân chương. Người đã trở về với thế giới người Hiền gần nửa thế kỷ, nhưng không lúc nào ta cảm thấy Người đi xa, Người vẫn ở bên ta như động viên, nhắn nhủ, thúc giục để ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm, xứng đáng là đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân. Tấm gương đạo đức ngời sáng Hồ Chí Minh còn sáng mãi trong cuộc đời, trong dân tộc và thế giới, còn sống mãi với thời gian.

Như thế, nhà tư tưởng Hồ Chí Minh còn đồng thời là nhà đạo đức học Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ kiên cường đấu tranh cho tự do, cho phẩm giá con người, người bạn lớn của nhân dân các dân tộc trên thế giới, nhà văn hóa kiệt xuất. Thực hành biền bỉ và nêu gương mẫu mực về đạo đức ở đời và làm người, đó là tư tưởng mà cũng là đạo đức, đó là phương pháp mà cũng là phong cách Hồ Chí Minh mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức học tập và làm theo.

Tấm gương đạo đức sáng ngời của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, trở thành động lực thúc đẩy chúng ta trong đổi mới, hội nhập để phát triển. Tấm gương đó tỏa sáng trong tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người, trở thành giá trị chuẩn mực và định hướng giá trị trong giáo dục và thực hành đạo đức cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn có ảnh hưởng và hiệu ứng rộng rãi trong đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc trên thế giới, bởi những người bạn bè, anh em của Việt Nam với tất cả tấm lòng chân thành, tin cậy đều dành cho Người sự khâm phục, ngưỡng mộ và kính trọng. “Việt Nam - Hồ Chí Minh”, “Việt Nam - Bác Hồ”, từ lâu đã được các bạn bè quốc tế của chúng ta cất lên tiếng nói, tiếng gọi trìu mến, thân thương khi đến Việt Nam - Tổ quốc của Người, khi đến thăm nơi ở và làm việc của Người tại Thủ đô Hà Nội, “ngôi nhà sàn đơn sơ giản dị, ngát hương thơm cây cỏ hoa vườn nhưng tâm hồn lộng gió bốn phương thời đại” (Phạm Văn Đồng). “Hồ Chí Minh” và “Bác Hồ” đã từ lâu trở thành từ vựng quen thuộc, không chỉ là biểu tượng của nhà chính trị lỗi lạc mà sâu xa, rộng lớn hơn là nhà văn hóa lớn, biểu trưng cho văn hóa đạo đức, cho văn hóa nhân cách Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Sự thật ấy của lịch sử, tự nó đã bác bỏ tất cả những gì mà những kẻ thù địch đang ra sức xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam, mưu toan hạ thấp giá trị Hồ Chí Minh, gieo rắc những giả tượng xuyên tạc bản chất, cố tình ngụy tạo, với ác ý thâm độc gây ra những hoài nghi về đạo đức và tấm gương đạo đức của Người, nhất là đối với những người trẻ tuổi sinh ra và lớn lên trong thời hiện tại, không có những trải nghiệm thực tiễn trong quá khứ như các lớp cha anh của họ. Cũng có những kẻ cơ hội, xu thời, đã từng thụ hưởng những ân huệ đầy tình nghĩa của chế độ dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh sáng lập, chỉ vì lòng dạ không còn trong sáng nữa, mang nặng những thiên kiến chủ quan, chủ nghĩa cá nhân, hám danh, vụ lợi và vị kỷ mà cố tình xuyên tạc sự thật hoặc đồng lõa với những kẻ xuyên tạc. Họ chẳng thể vấy bẩn được ai mà tự vấy bẩn chính mình, tự hạ thấp mình mà thôi.

Lịch sử vốn công minh, khách quan. Trí tuệ của nhân dân là sáng suốt. Dư luận thế giới là rộng lớn. Những ai có lương tri và trọng phẩm giá con người đều nói tiếng nói trung thực, có cốt cách của học thức và văn hóa trong cảm nhận, đánh giá về Hồ Chí Minh. Và đây là dòng chủ đạo, tự nó đã có sức mạnh phủ định và phê phán những giọng điệu lạc lõng xuyên tạc về Việt Nam, về Đảng và Bác Hồ.

Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân

------------------------------------------------------

(3) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 272.
(4) Người nói với những người giúp việc trong mỗi buổi sáng đi tập thể dục, khi nhìn thấy Người đều xuống xe đạp để chào: “Bác có phải là vua đâu mà các cô các chú cứ “hạ mã” thế!”.
(5) Đại hội II (1951), Đại hội III (1960) đều bầu Người là Chủ tịch Đảng.
(6) Chống giặc đói, giặc dốt, như chống giặc ngoại xâm; ra sắc lệnh bãi bỏ tất cả các thứ thuế phi lý và phi nhân là tàn tích của chế độ thực dân để lại; khẩn trương soạn thảo Hiến pháp dân chủ để xác lập quyền làm chủ của người dân; xây dựng nền văn hóa mới, tuyên bố tự do tín ngưỡng, cải tạo phong tục tập quán lạc hậu là tàn tích của chế độ thực dân phong kiến để lại và thực hành đại đoàn kết.
(7) Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 9.
(8) Sđd, Tập 4, Nxb CTQG. H. 2011, tr. 9.