Nông nghiệp Ninh Thuận sau 23 năm tái lập tỉnh và hướng đến ứng dụng công nghệ cao để phát triển các giá trị nông nghiệp vùng khô hạn vào năm 2020

(NTO) Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là ngành kinh tế lớn của tỉnh. Sau 23 năm tái lập tỉnh, ngành Nông nghiệp đã có bước phát triển vượt bậc, tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông-lâm-thủy sản gấp 6 lần, trong đó nông nghiệp gấp 3,7 lần, thủy sản gấp 11,5 lần.

Đồng chí Nguyễn Đức Thu,
Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT

Những nhóm sản phẩm có lợi thế của tỉnh có sự phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng như sản lượng bắp tăng 15,8 lần, sản lượng nho, táo tăng 6 lần, tôm thịt tăng 14 lần, sản lượng hải sản đánh bắt tăng 5,7 lần, tàu thuyền đánh bắt tăng 2,7 lần về số tàu và 18,9 lần về công suất. Trở thành trung tâm sản xuất tôm giống lớn nhất cả nước với sản lượng 27,5 tỷ con năm 2015. Sản xuất muối tăng 5,8 lần về diện tích và 6,4 lần về sản lượng. Diện tích rừng phòng hộ, đặc dụng được quản lý, bảo vệ chặt chẽ với sự hình thành 2 Vườn quốc gia thuộc tỉnh và 5 Ban Quản lý rừng phòng hộ, tỷ lệ che phủ rừng đạt 44,2%.

Đặc biệt công tác thủy lợi, nếu năm 1992, toàn bộ nguồn nước sản xuất trong tỉnh chủ yếu dựa vào nguồn nước thủy điện Đa Nhim, với dung tích khoảng 165 triệu m3, từ năm 1992 đến nay, đã đầu tư hoàn thành thêm 20 hồ chứa lớn, với tổng dung tích thiết kế tăng thêm 192 triệu m3. Các ngành, các cấp của tỉnh đã quan tâm đầu tư phát triển nông thôn, hình thành mạng lưới các công trình cấp nước sinh hoạt, đến nay, tỷ lệ dân nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh đạt 87% (so với tỷ lệ 32% vào năm 1992); tỷ lệ hộ dân nông thôn có công trình nhà vệ sinh đạt 70% (so với 10% vào năm 1992). Nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh nông thôn, quy hoạch lại dân cư, xây dựng trường, trạm, giao thông nông thôn đã được triển khai xây dựng, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, nhất là các vùng đồng bào dân tộc, vùng miền núi.

 
Sản phẩm nho sạch theo tiêu chuẩn VietGAP.

Thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đề ra, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, nhất là tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, nhưng sản xuất nông-lâm-thủy sản phát triển toàn diện, tăng cả về quy mô, năng suất, chất lượng, tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 7,5%/năm, vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra là 6-7%/năm. Sản xuất thủy sản tiếp tục phát triển, phát huy lợi thế về sản xuất giống; khai thác thủy sản đang phát triển theo chiều sâu với sự gia tăng tàu thuyền công suất lớn, trang thiết bị hiện đại, khai thác xa bờ, tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao ngày càng nhiều. Cơ cấu cây trồng đã chuyển dịch rõ nét theo hướng tăng giá trị cây ăn quả, cây công nghiệp; đã hình thành các vùng chuyên canh cây ăn quả, cây công nghiệp, vùng chăn nuôi gia súc có sừng gắn với các hình thức tổ chức sản xuất mới, liên minh, liên kết với doanh nghiệp để ứng dụng khoa học công nghệ.

Bước sang giai đoạn 2016-2020, nông nghiệp tỉnh nhà đang đứng trước những cơ hội và những thách thức trong phát triển. Điều kiện khí hậu khô hạn, biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, kèm theo thiên tai khó lường. Nhưng Ninh Thuận có lợi thế về các sản phẩm đặc thù của vùng khô hạn mà nhiều nơi trong nước không có được, hạ tầng phục vụ sản xuất ngày càng hoàn thiện. Do vậy, nhiệm vụ của ngành Nông nghiệp trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ là tận dụng các thành tựu của khoa học công nghệ để xây dựng một nền nông nghiệp hướng đến công nghệ cao và phát huy, phát triển được các lợi thế của nông nghiệp vùng khô hạn. Vì vậy, định hướng chiến lược và nhiệm vụ phát triển của Ngành trong giai đoạn tới sẽ là:

Nông dân phát triển đàn gia súc có sừng theo mô hình trang trại.

Sản xuất nông nghiệp: Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu gắn với thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa phương, nhất là các loại cây trồng, vật nuôi có lợi thế đặc thù của địa phương, có ưu thế cạnh tranh trên thị trường; tăng tỷ trọng chăn nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế cao, tăng tỷ trọng giá trị nông nghiệp công nghệ cao và dịch vụ nông nghiệp. Xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh, chuyên nuôi tập trung có quy mô lớn như diện tích nho, táo đạt quy mô 3.200 ha, sản lượng khoảng 47.000 tấn nho, 55.000 tấn táo. Mở rộng diện tích trồng mía đạt quy mô 5.000 ha, sản lượng 262.000 tấn; ổn định diện tích cây mỳ 2.000-2.500 ha, sản lượng 60.000 tấn. Sẽ ưu tiên phát triển các con nuôi có lợi thế là dê, cừu, bò (bao gồm cả bò sữa, dê sữa) đạt quy mô tổng đàn 255.000 con vào năm 2020, phát triển đàn heo theo hướng các trang trại công nghiệp đạt quy mô tổng đàn 110.000 con. Nâng cao chất lượng đàn gia súc thông qua việc cải tạo giống, áp dụng các quy trình chăn nuôi công nghiệp tiên tiến, phấn đấu đạt tỷ lệ bò lai là 50% và tỷ lệ đàn dê, cừu được cải tạo giống mới là 90% vào năm 2020. Phát triển một số vùng chăn nuôi gia súc ứng dụng các kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, gắn kết với chuỗi tiêu thụ sản phẩm theo quy hoạch vùng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao.

 
Nông dân xã Phước Dinh (huyện Thuận Nam) thu hoạch tôm thẻ chân trắng đạt hiệu quả kinh tế cao.
Ảnh: V.Miên

Sản xuất thủy sản: Huy động các nguồn lực để khai thác tiềm năng, thế mạnh về kinh tế biển, trong đó phát triển thủy sản theo hướng phát huy lợi thế về sản xuất giống thủy sản, phát triển nuôi trồng gắn với chế biến. Quy hoạch lại và đầu tư kết cấu hạ tầng vùng sản xuất giống, khuyến khích các cơ sở sản xuất nhỏ liên kết hình thành các tập đoàn đầu tư công nghệ hiện đại để sản xuất bền vững. Đối với ngành nuôi trồng, từng bước tổ chức lại sản xuất theo hướng nâng cao trình độ công nghệ nuôi, cấu trúc lại hệ thống ao, đìa thành các khu vực chuyên ứng dụng công nghệ cao và các khu vực nuôi sinh thái bền vững. Mở rộng diện tích nuôi trên biển và nuôi nước ngọt. Đẩy mạnh khai thác xa bờ, chuyển đổi cơ cấu nghề theo hướng khai thác các sản phẩm có giá trị kinh tế cao gắn với triển khai thực hiện Đề án Tổ chức lại nghề khai thác hải sản và thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP về Các chính sách khuyến khích phát triển thủy sản.

Sản xuất lâm nghiệp: Quản lý, bảo vệ chặt chẽ diện tích rừng phòng hộ, đặc dụng. Quản lý, sử dụng có hiệu quả diện tích rừng sản xuất hiện có, thay thế các diện tích kém hiệu quả bằng rừng trồng có năng suất cao, tạo vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh có quy mô vừa và nhỏ. Phấn đấu đạt độ che phủ 50% vào năm 2020. Khuyến khích đầu tư phát triển rừng sản xuất theo hình thức nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí với các đối tượng cây trồng mới cho năng suất cao, gắn với phát triển công nghiệp chế biến gỗ rừng trồng.

Sản xuất muối đem lại thu nhập ổn định góp phần nâng cao đời sống diêm dân.

Sản xuất và chế biến muối: Phát triển ngành công nghiệp sản xuất, chế biến muối và sản xuất các sản phẩm sau muối, ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, sản xuất muối tinh và hóa chất sau muối. Phấn đấu đến 2020 đạt diện tích đưa vào sản xuất 3.900 ha, sản lượng đạt 550.000 tấn, trong đó, muối công nghiệp là 450.000 tấn. Đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến muối và các sản phẩm sau muối với trang thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại, trở thành trung tâm sản xuất, chế biến muối, và hóa chất từ muối lớn và hiện đại nhất toàn quốc.

Để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển, ngành hướng tập trung vào các nhóm giải pháp chính, đó là: Đẩy mạnh chuyển giao khoa học-kỹ thuật, gắn phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ; Tổ chức lại sản xuất, trong đó, tổ chức lại nghề khai thác hải sản theo Đề án đã được phê duyệt. Tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hóa; phát triển gia trại, trang trại, doanh nghiệp tư nhân. Tiếp tục hướng dẫn, vận động để thành lập các tổ chức của nông dân, ngư dân như tổ hợp tác, hợp tác xã, tổ đoàn kết trên biển, tổ hợp tác chuyên ngành phù hợp với cây con, ngành nghề… liên kết với doanh nghiệp để sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho cư dân nông thôn, gắn với phát triển làng nghề, phát triển công nghiệp-dịch vụ nông thôn. Chú trọng đào tạo theo các đề án, dự án, mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả trên địa bàn và thông qua các doanh nghiệp có hợp đồng liên kết với nông dân; Triển khai có hiệu qủa các chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và thực hiện đổi mới cơ cấu và cơ chế đầu tư, đầu tư phát triển thủy lợi theo quy hoạch thủy lợi thích ứng với biến đổi khí hậu, theo hướng phục vụ đa mục tiêu, dung tích các hồ chứa tăng thêm 292,5 triệu m3 (tổng dung tích các hồ trong tỉnh đạt 508,3 triệu m3), năng lực tưới tăng thêm 7.935 ha, đạt 60% diện tích đất nông nghiệp vào năm 2020; Thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông-lâm-thủy sản và sản xuất muối theo chiều sâu gắn với vùng nguyên liệu. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào các vùng sản xuất nho táo, rau, chăn nuôi gia súc, thủy sản theo Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được phê duyệt; Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và vệ sinh an toàn thực phẩm để tạo thuận lợi cho xuất khẩu và tiêu thụ hàng nông sản. Tăng cường quản lý, có các giải pháp để quản lý, bảo vệ môi trường các vùng nuôi trồng thủy sản, sản xuất giống thủy sản, bảo vệ môi trường tại các vùng sản xuất nông nghiệp.