Vị thuốc từ Mù U

Còn gọi là đồng hồ, khung tung, khchyong (Campuchia). Tên khoa học Calophyllum inophyllum L. Thuộc họ Măng cụt Guttiferae.

Mô tả cây

Mù u là cây cao chừng 10-15m dáng đẹp. Lá mọc đối, mỏng, thon dài, phía cuống hơi thắt lại, đầu lá hơi tù, phiến lá dài 10-17cm, rộng 5-8cm, gân rất nhỏ, nhiều, chạy song song và nổi rỗ ở hai mặt lá. Hoa khá to, thơm, màu trắng, mọc thành chùm xim ở kẽ lá hay đầu cành. Từ xa, người ta phân biệt được cây mù u với cây khác là nhờ màu trắng đặc biệt của hoa. Quả hạch, hình cầu, đường kính chừng 2,5cm khi chín có màu vàng nhạt, vỏ quả giữa mẫm, vỏ quả trong dày, cứng. Hạt có lá mầm chứa rất nhiều dầu. Mùa hoa tháng 2-6, mùa quả chín tháng 10,11,12.

Công dụng và liều dùng

Phần lớn dùng trong phạm vi nhân dân. Nhựa mù u được dùng dưới dạng bột rắc lên các vết loét, mụn nhọt, tai có mủ.

Dầu mù u dùng chữa ghẻ, bệnh ngoài da hay trộn đều với ít vôi đun lên rồi bôi vào. Năm 1947, Mauboussin dùng dầu mù u có iốt để điều trị bệnh tràng nhạc.

Dầu mù u còn dùng xoa bóp trị bệnh thấp khớp.

Năm 1951, A. Ormanegy và cộng sự đã chứng minh tác dụng lên sẹo và an thần của dầu mù u.

Từ năm 1983, tại bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Quang Long đã dùng dầu mù u điều trị các vết thương, viêm xương có kết quả rất tốt.

Nguyễn Tiến Hải dùng dầu mù u điều trị thành công lộ tuyến viêm cổ tử cung.

Ngoài công dụng làm thuốc, dầu mù u còn được nhân dân dùng thắp đèn, có thể dùng nấu xà phòng. Gỗ mù u dùng đóng thuyền và làm cột buồm.