Những điểm mới của Luật Tố cáo năm 2018

Luật Tố cáo năm 2018 được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12-6-2018 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2019. Luật gồm có 9 Chương, 67 Điều. Luật Tố cáo năm 2018 có nhiều điểm mới so với Luật Tố cáo năm 2011; trong đó, có một số điểm mới đáng chú ý, đó là:

Thứ nhất, bổ sung quy định về trường hợp có nội dung tố cáo nhưng không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức quy định.

Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 25 Luật tố cáo năm 2018. Theo đó: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không xử lý khi nhận được thông tin có nội dung tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác minh, không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo sử dụng họ tên của người khác, để tố cáo hoặc thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức tố cáo do luật định (bằng đơn tố cáo hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền). Đối với thông tin có nội dung tố cáo thuộc trường hợp nêu trên nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận, tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với nội dung tố cáo.

Thứ hai, quy định rút gọn trình tự giải quyết tố cáo

Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 28 Luật tố cáo năm 2018. Theo đó, trình tự giải quyết tố cáo được rút gọn lại chỉ còn 4 bước, thay vì 5 bước như quy định tại Luật tố cáo năm 2011. Cụ thể, trình tự giải quyết tố cáo gồm: thụ lý tố cáo; xác minh nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo; xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo. Như vậy, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo bắt đầu từ khâu thụ lý tố cáo (thay vì bắt đầu từ khâu tiếp nhận tố cáo như quy định trước đây), đây cũng là thời điểm bắt đầu để tính thời hạn giải quyết tố cáo.

Thứ ba, quy định rút ngắn thời hạn giải quyết tố cáo

Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 30 Luật tố cáo năm 2018. Theo đó, quy định thời hạn giải quyết tố cáo là không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý tố cáo; trường hợp vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần nhưng không quá 30 ngày; đặc biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày.

Thứ tư, bổ sung quy định về rút tố cáo

Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 33 Luật tố cáo năm 2018. Theo đó, quy định người tố cáo có quyền rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung tố cáo trước khi người giải quyết tố cáo ra kết luận nội dung tố cáo. Việc rút tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản. Người tố cáo rút tố cáo nhưng nếu có căn cứ xác định người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi tố cáo của mình, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, bổ sung quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết tố cáo

Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 34 Luật tố cáo năm 2018. Theo đó, cho phép người giải quyết tố cáo ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo hoặc quyết định đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi có một trong các căn cứ theo quy định của Luật. Cụ thể:

Người giải quyết tố cáo ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc đợi kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan hoặc cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại. Người giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo (trừ trường hợp người tố cáo rút tố cáo mà người giải quyết tố cáo xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải được giải quyết); hoặc người bị tố cáo là cá nhân chết và nội dung tố cáo chỉ liên quan đến trách nhiệm của người bị tố cáo; hoặc vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

Thứ sáu, quy định rõ hơn về bảo vệ người tố cáo

Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 47 Luật tố cáo năm 2018. Theo đó, đã định nghĩa cụ thể về đối tượng, phạm vi bảo vệ người tố cáo: bảo vệ người tố cáo là việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cho nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (người được bảo vệ). Khi có căn cứ về việc vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo và người thân của họ đang bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ngay tức khắc hay họ bị trù dập, phân biệt đối xử do việc tố cáo; người giải quyết tố cáo, cơ quan khác có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.

Bên cạnh những điểm mới cơ bản của Luật tố cáo năm 2018 đã nêu ở trên, Luật tố cáo năm 2018 vẫn kế thừa một số quy định của Luật tố cáo năm 2011; trong đó, đối với hình thức tố cáo, Luật tố cáo năm 2018 tiếp tục quy định 2 hình thức tố cáo là tố cáo bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (không mở rộng hình thức tố cáo bằng fax, email hay các hình thức khác).