Kết quả giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII

Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh từ đầu nhiệm kỳ đến nay

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; trong nước, kinh tế vĩ mô ổn định và tiếp tục phát triển, lạm phát được kiểm soát; việc triển khai thực hiện một số chủ trương, chính sách lớn về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị… từng bước phát huy hiệu quả.

Hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tác động trên nhiều phương diện, vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho phát triển. Trong tỉnh, nền kinh tế có bước phát triển mới, vị thế của Tỉnh được nâng lên; nhiều tiềm năng lợi thế, nhất là các lợi thế về kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch và nông nghiệp công nghệ cao được nhận diện rõ hơn, thu hút được nhiều sự quan tâm và bước đầu khai thác hiệu quả.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII. Ảnh: Văn Nỷ.

Tuy nhiên, nổi lên một số vấn đề khó khăn hơn so với dự báo: Việc thực hiện chủ trương dừng triển khai dự án Nhà máy điện hạt nhân đã tác động lớn đến định hướng, chiến lược phát triển của tỉnh; nguồn lực đầu tư cho phát triển còn hạn chế, vốn đầu tư trung hạn chậm phân bổ; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; tình hình biến đổi khí hậu, hạn hán kéo dài... đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; một bộ phận Nhân dân đời sống còn nhiều khó khăn, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng bị hạn hán,... đã tác động không nhỏ đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết.

Trước tình hình đó, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, quyết tâm chính trị cao, chủ động, kịp thời nắm bắt thời cơ, tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả chủ trương phát triển nhanh các nhóm ngành đột phá, trụ cột về kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao và các dự án động lực thay thế, đã góp phần biến những khó khăn, thách thức trở thành động lực phát triển... đã đạt kết quả tích cực trên các lĩnh vực, cụ thể:

I/ Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2016-2018

Nghị quyết Đại hội XIII đề ra 25 chỉ tiêu chủ yếu trên các lĩnh vực; qua kết quả thực hiện trong 02 năm 2016-2017 và 9 tháng đầu năm 2018, ước thực hiện cả năm 2018, có 22 chỉ tiêu đạt khá và có khả năng hoàn thành mục tiêu, có 03 chỉ tiêu còn nhiều khó khăn (Giá trị kim ngạch xuất khẩu, độ che phủ rừng, trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia), cụ thể như sau:

Các chỉ tiêu về kinh tế

(1) Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2016-2018 là 8,6%/năm (mục tiêu giai đoạn 2016-2020 là 10-11%/năm); Quy mô nền kinh tế năm 2018 tăng gấp 1,28 lần so năm 2015 và bằng 80,2% mục tiêu năm 2020.

(2) GRDP bình quân đầu người năm 2018 ước đạt 39,7 triệu đồng/người, tăng gấp 1,4 lần năm 2015 và bằng 68,4% mục tiêu năm 2020 (58-60 triệu đồng/người)

(3) Giá trị gia tăng các ngành bình quân giai đoạn 2016-2018: Nông, lâm nghiệp và Thủy sản 8,1%/năm (mục tiêu 5-6%/năm); công nghiệp-xây dựng 8,6%/năm (mục tiêu 14-15%/năm); dịch vụ 8,8%/năm (mục tiêu 11-12%/năm).

(4) Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp-xây dựng năm 2018 chiếm 22,3% (mục tiêu năm 2020 là 30-31%); Nông, lâm, thủy sản chiếm 37,6% (mục tiêu 28-29%); dịch vụ chiếm 40,1% (mục tiêu 39-40%).

(5) Thu ngân sách trên địa bàn năm 2018 ước đạt 2.300 tỷ đồng (mục tiêu năm 2020 là 2.800-3.000 tỷ đồng).

(6) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016-2018 khoảng 29.170 tỷ đồng, bằng 57,2% mục tiêu năm 2020 (51-55 ngàn tỷ đồng).

(7) Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2018 ước đạt 85 triệu USD (mục tiêu là 150 triệu USD).

Các chỉ tiêu về xã hội

(8) Tạo việc làm mới giai đoạn 2016-2018 hàng năm trên 16 ngàn lao động (mục tiêu 15,5 ngàn lao động).

(9) Lao động qua đào tạo năm 2018 đạt 56,2%, trong đó đào tạo nghề đạt 41% (mục tiêu là 60%, trong đó đào tạo nghề đạt 45%).

(10) Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2018 đạt 1,127% (mục tiêu là 1,12%).

(11) Hộ nghèo giảm bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2018 đạt 2% (mục tiêu giảm hàng năm giai đoạn 2016-2020 là 1,5 - 2%/năm).

(12) Năm 2018, có 08 bác sỹ/ 01vạn dân (mục tiêu năm 2020 là 10 bác sỹ) và 70,8% trạm y tế xã, phường có bác sỹ (mục tiêu 70%); trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng còn 15% (mục tiêu dưới 13%).

(13) Năm 2018, có 39,4% số trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia (mục tiêu năm 2020 là 50%); 65% học sinh tiểu học học 02 buổi/ngày (mục tiêu 80%); 16,3% trường mầm non đạt chuẩn quốc gia (mục tiêu 20%).

(14) Năm 2018, có 83% số thôn, khu phố (mục tiêu là 90%) và 100% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn về văn hóa (mục tiêu là 100%).

(15) Diện tích sàn nhà ở năm 2018 đạt 18 m2sàn/người (mục tiêu 20m2).

(16) Đến cuối năm 2018 dự kiến có 19 xã đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đạt 80% mục tiêu (mục tiêu 50% số xã, tương đương 24 xã và từ 1-2 huyện đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới).

Các chỉ tiêu về môi trường

(17) Độ che phủ rừng năm 2018 đạt 43% (mục tiêu là 50%).

(18) Dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh năm 2018 đạt 92% (mục tiêu là 95%). Số hộ nông thôn có nhà vệ sinh đạt 75% (mục tiêu 85%).

(19) Tỷ lệ thu gom rác thải đô thị năm 2018 đạt 92,48% (mục tiêu là 95%).

Các chỉ tiêu về quốc phòng- an ninh

(20) Tỷ lệ xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện năm 2018 đạt 33,8% (mục tiêu là 70% trở lên).

(21) Tỷ lệ dân quân, tự vệ trong dân số năm 2018 đạt 1,5% (mục tiêu là 1,4 - 1,5%); tỷ lệ đảng viên trong dân quân tự vệ đạt 21,15% (mục tiêu 22% trở lên).

(22) Tỷ lệ xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp đạt loại khá trở lên về an toàn - an ninh, trật tự năm 2018 đạt 85% (mục tiêu là 85%).

Các chỉ tiêu về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

(23) Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng hàng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 93,8% (mục tiêu là 90% trở lên), trong đó: trong sạch vững mạnh đạt 64,4% (mục tiêu là 50%).

(24) Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm đạt 86,5% trở lên (mục tiêu là 80% trở lên).

(25) Kết nạp đảng viên mới hàng năm đều đạt chỉ tiêu đề ra (mục tiêu kết nạp hàng năm từ 800-900).

II/ Kết quả thực hiện các nhiệm vụ

1/ Về kinh tế:

1.1/ Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và kinh tế nông thôn

Chủ trương về cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với thích ứng biến đổi khí hậu và xây dựng nông thôn mới được tập trung triển khai thực hiện; công tác chống hạn được triển khai quyết liệt, đồng bộ, hạn chế được thấp nhất thiệt hại do hạn hán gây ra. Quan tâm thu hút và đã thu hút được một số dự án nông nghiệp công nghệ cao; đầu tư các công trình, hạ tầng thủy lợi theo hướng liên thông được chú trọng. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp dự kiến đến cuối năm 2018 khoảng 10.964 tỷ đồng, tăng bình quân 8,8%/năm, vượt mục tiêu đề ra.

- Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng bền vững, hiệu quả gắn với ứng dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất; các mô hình cánh đồng lớn, mô hình tưới tiết kiệm nước, liên kết hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm được quan tâm triển khai, nhân rộng. Chất lượng, năng suất và sản lượng cây trồng được nâng lên; bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, góp phần nâng giá trị sản xuất/01 ha đất canh tác đạt 122,5 triệu đồng/ha, tăng 27,8 triệu đồng/ha so năm 2015.

Chủ trương phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn, hiệu quả, có giá trị kinh tế cao gắn với phát triển các đồng cỏ được quan tâm thực hiện. Đến nay, toàn tỉnh có 52 trang trại chăn nuôi tập trung, tăng 13 trang trại so với đầu nhiệm kỳ; quy mô đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định; tỷ lệ đàn dê, cừu được lai tạo giống mới đạt 90%; một số mô hình nuôi vỗ béo thực hiện có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đàn gia súc.

Phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn, hiệu quả, có giá trị kinh tế cao. Ảnh: Văn Nỷ.

Tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm túc chủ trương đóng cửa rừng gắn với tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; độ che phủ rừng đến cuối năm 2018 ước đạt 43%.

- Sản xuất thủy sản có bước phát triển khá toàn diện cả về khai thác, nuôi trồng gắn với chế biến thủy sản; chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm sản xuất tôm giống của cả nước tiếp tục được đẩy mạnh; năng lực, quy mô sản xuất tăng nhanh, cung ứng gần 30% tổng nhu cầu tôm giống của cả nước.

- Kinh tế nông thôn được tập trung chỉ đạo, bước đầu hình thành nhiều mô hình có hiệu quả, xây dựng chuỗi giá trị trong nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; huy động, lồng ghép, sử dụng hiệu quả trên 1.138 tỷ đồng đầu tư kết cấu hạ tầng; ước đến cuối năm 2018 đạt bình quân 13,21 tiêu chí/xã và có 19 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người của khu vực nông thôn năm 2017 đạt 28,03 triệu đồng/người, tăng 7,63 triệu đồng/người so với năm 2015.

Hoạt động kinh tế tập thể được duy trì ổn định và có phát triển. Từ năm 2016 đến tháng 6/2018, toàn tỉnh có 13 HTX thành lập mới, nâng tổng số HTX đang hoạt động toàn tỉnh lên 66 HTX, với trên 30.000 thành viên.

1.2/ Công nghiệp

Tốc độ tăng trưởng công nghiệp-xây dựng đạt bình quân 8,9 %/năm. Tiềm năng, lợi thế mới về năng lượng tái tạo, thủy điện tích năng, kinh tế biển, điện khí, khu kinh tế phía Nam được nhận diện rõ hơn, đầy đủ hơn. Chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm năng lượng tái tạo từng bước được hình thành và có nhiều khởi sắc và đi đúng hướng. Chủ trương thu hút phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng được tập trung chỉ đạo. Phát triển công nghiệp chế biến gắn với nguồn nguyên liệu của địa phương được quan tâm. Một số ngành hàng chính iếp tục được đầu tư nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô sản xuất, sản lượng tăng khá so với năm 2015, đóng góp cho tăng trưởng chung của ngành công nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề được duy trì ổn định, góp phần giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn. Hạ tầng các khu, cụm công nghiệp được quan tâm đầu tư.

1.3/ Xây dựng

Công tác quy hoạch, thu hút đầu tư phát triển đô thị, nông thôn có chuyển biến khá tích cực; diện mạo đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc; bước đầu hình thành thị trường bất động sản. Tập trung huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng đô thị thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, nhất là đầu tư các khu đô thị mới, các tuyến đường giao thông nội thị theo hình thức BT; hạ tầng đô thị về cấp thoát nước, công viên cây xanh, vệ sinh môi trường đô thị được cải thiện rõ rệt. Mạng lưới cấp nước được tiếp tục mở rộng đến các khu du lịch trọng điểm, khu kinh tế phía Nam và các khu dân cư tập trung. Ước giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2018 đạt 4.929 tỷ đồng, tăng bình quân 13,7%/năm.

1.4/ Thương mại - Du lịch và các ngành dịch vụ

- Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp bình ổn và phát triển thị trường, bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt; chương trình đưa hàng về nông thôn, miền núi và cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được quan tâm chỉ đạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của Nhân dân, nhất là vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

- Chủ trương phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đạt được kết quả bước đầu, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được tập trung triển khai, đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư chiến lược; nhiều tour, tuyến, điểm du lịch mới được hình thành, chất lượng dịch vụ du lịch được nâng lên. Trong 3 năm đã thu hút 5.700 ngàn lượt du khách, tăng bình quân 11,9%/năm, doanh thu du lịch tăng bình quân 17,9%/năm.

Đông đảo du khách đến tham quan tại tháp Pôklong Garai (Tp. Phan Rang- Tháp Chàm). Ảnh: Văn Nỷ.

- Dịch vụ vận tải phát triển khá, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đi lại của Nhân dân. Công tác thông tin và truyền thông tiếp tục được duy trì, chất lượng dịch vụ được nâng cao; quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí được tăng cường. Chương trình đưa văn hóa về cơ sở và giao lưu trực tuyến trên truyền hình được duy trì, được đông đảo người dân hưởng ứng tham gia.

1.5/ Về tài nguyên, môi trường

Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường được tăng cường. Đã hoàn thành việc lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020; hoàn thành 100% việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức và 98% hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư được tập trung chỉ đạo và cơ bản hoàn thành theo tiến độ.

Việc thực hiện Đề án “Chung tay xây dựng Ninh Thuận xanh-sạch-đẹp” được triển khai đạt kết quả; vệ sinh môi trường đô thị, nông thôn, khu vực du lịch, làng nghề... có chuyển biến tiến bộ; các cơ sở chế biến có lưu lượng nước thải lớn từ 200 m3/ngày đêm trở lên đều có hệ thống xử lý tập trung. Các công trình ứng phó biến đổi khí hậu được quan tâm đầu tư xây dựng.

1.6/ Tài chính - ngân hàng

Trong giai đoạn 2016-2018, hoạt động thu ngân sách trên địa bàn tỉnh chủ yếu là thu nội địa, thu thuế xuất nhập khẩu còn hạn chế; tổng thu ngân sách ước đạt 6.705 tỷ đồng, trong đó thu nội địa 6.631 tỷ đồng, chiếm 98,8%; thu thuế xuất nhập khẩu 75 tỷ đồng, chiếm 1,2%. Thực hiện nghiêm chủ trương tiết kiệm chi ngân sách, đẩy mạnh phân cấp cho các huyện, thành phố; chất lượng hoạt động của các Quỹ tài chính được nâng lên và phát huy hiệu quả. Tổng chi ngân sách ước đạt 14.067 tỷ đồng, tăng bình quân 9,6%/năm.

Hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn, có tăng trưởng; chương trình kết nối Ngân hàng với doanh nghiệp được duy trì và đạt kết quả khá tích cực, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.

1.7/ Kinh tế đối ngoại, phát triển các thành phần kinh tế

Chủ trương hội nhập quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao vị thế của tỉnh, tập trung thu hút đầu tư tạo nguồn lực quan trọng phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Trong 3 năm đã đàm phán, ký kết 05 bản ghi nhớ về hợp tác đầu tư, tài trợ với các tổ chức quốc tế, đồng thời có 19 dự án ODA được triển khai, với tổng vốn trên 8.710 tỷ đồng; thu hút 46 dự án viện trợ phi chính phủ với tổng giá trị trên 06 triệu USD. Chương trình hợp tác phát triển với thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh duyên hải miền Trung, triển khai ký kết hợp tác quốc tế với các tỉnh Kursk (Liên bang Nga) và tỉnh Fukui (Nhật Bản) được tập trung thực hiện, đạt kết quả tích cực bước đầu.

Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện; công tác xúc tiến đầu tư được tập trung chỉ đạo, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư chiến lược.

1.8/ Đầu tư phát triển

Trong bối cảnh dừng chủ trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân, nguồn lực đầu tư công giảm, tỉnh đã tích cực xây dựng và kiến nghị Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc thù hỗ trợ cho tỉnh; đồng thời, tăng cường thu hút, huy động nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế, tập trung vào các khâu trọng điểm, đột phá của tỉnh. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016-2018 ước đạt 29.170 tỷ đồng, tăng bình quân 11%/năm.

- Đối với các nguồn vốn đầu tư công: Đã tranh thủ được nhiều nguồn vốn giao bổ sung ngoài kế hoạch của Trung ương, tập trung ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, tạo đột phá cho phát triển, khắc phục có hiệu quả biến đổi khí hậu và giải quyết nhu cầu an sinh xã hội bức thiết. Chỉ đạo xây dựng kịp thời kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm đúng quy định của pháp luật, dự kiến hoàn thành về trước một năm so với lộ trình của Chính phủ.

- Đối với đầu tư các thành phần kinh tế: Đã tạo được làn sóng đầu tư mới, thu hút các tập đoàn, tổng công ty lớn, có thương hiệu trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực Tỉnh có lợi thế. Kết quả từ năm 2016 đến tháng 6/2018, đã cấp quyết định chủ trương đầu tư, chủ trương địa điểm cho 169 dự án với tổng vốn 123.570 tỷ đồng, chiếm 40% số dự án và 70% số vốn đăng ký đầu tư từ trước đến nay, trong đó có 08 dự án FDI được cấp quyết định chủ trương đầu tư, tổng vốn đăng ký 14.610 tỷ đồng, chiếm 20% tổng vốn. Đến nay, đã có 35 dự án hoàn thành đưa vào hoạt động, đóng góp tích cực cho tăng trưởng từ năng lực sản xuất mới tăng thêm.

2/ Về phát triển kinh tế-xã hội miền núi

Các chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai đồng bộ, kịp thời. Một số mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp có hiệu quả từng bước được nhân rộng. Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của Nhân dân được quan tâm đầu tư thông qua lồng ghép nhiều nguồn lực. Chương trình giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được chỉ đạo triển khai kịp thời, ưu tiên các nguồn vốn đầu tư hỗ trợ trực tiếp đến người dân (tổng vốn đầu tư 1.625 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách 1.606 tỷ và vốn tài trợ 19 tỷ đồng). Công tác y tế, đào tạo nghề và giải quyết việc làm được triển khai đạt kết quả (có 96,3% trạm y tế xã có bác sỹ; 59,3 xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế; Trong 3 năm đào tạo 4.676 lao động, bình quân mỗi năm đào tạo 1.558 lao động, gấp 1,8 lần so năm 2015; Giải quyết việc làm mới cho 16.955 lao động, bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 5.651 lao động, tăng 20% so năm 2015, xuất khẩu lao động 126 người, bình quân mỗi năm xuất khẩu 42 lao động,gấp 2,3 lần so năm 2015). Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 23%, bình quân mỗi năm giảm 4,1%/năm. Trình độ dân trí, đời sống vật chất tinh thần của đồng bào dân tộc miền núi được cải thiện rõ nét hơn.

3/ Về văn hóa, xã hội và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

3.1/ Giáo dục-đào tạo

- Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy và học gắn với sắp xếp hệ thống trường lớp học; quy mô học sinh các cấp học được duy trì, chất lượng được nâng lên; tình trạng bỏ học ở các cấp giảm. Cơ sở vật chất trường, lớp học được quan tâm đầu tư nâng cấp (đã đầu tư xây mới và nâng cấp, sửa chữa 595 phòng học và nhà công vụ giáo viên; 5/7 huyện, thành phố có trường PT dân tộc nội trú, 11 trường bán trú-3 trường tiểu học, 8 trường THCS; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi. Công tác phân luồng học sinh sau bậc THCS đạt kết quả tích cực bước đầu. Xã hội hóa giáo dục được nhiều nhà đầu tư quan tâm và triển khai đạt kết quả (thành lập trường phổ thông Ischool-đào tạo liên cấp, trường TH Hoa Sen, trường mầm non Hoa Sen; có 186 cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập).

- Đã thực hiện đầu tư mở rộng trường Cao đẳng nghề, nâng cấp trường Cao đẳng sư phạm theo hướng đa ngành, triển khai Đề án xây dựng phân hiệu Đại học Nông lâm thành phố HCM. Hiện toàn tỉnh có 19 cơ sở dạy nghề, trong đó có 07 cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập; các Trung tâm giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cấp huyện được sắp xếp, kiện toàn, đáp ứng nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn. Trong 03 năm đã đào tạo cho hơn 26.240 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 56,2%, trong đó đào tạo nghề đạt 41%. Có khoảng 60-70% lao động có việc làm sau đào tạo.

3.2/ Về Khoa học và công nghệ: Công tác liên kết, hợp tác trong nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và nhân rộng mô hình sản xuất theo công nghệ sinh học, ứng dụng công nghệ cao được quan tâm. Trong 03 năm qua đã triển khai thực hiện 53 đề tài, trong đó có 7 đề tài cấp nhà nước; hỗ trợ 66 doanh nghiệp về bảo hộ sở hữu trí tuệ; xây dựng bộ tiêu chí xác lập 15 sản phẩm đặc thù, tiềm năng đặc thù, trong đó 12 sản phẩm đặc thù (Nho, táo, tỏi, măng tây, nha đam, rong sụn, dê, cừu, tôm giống, nước mắm Cà Ná, thổ cẩm Mỹ Nghiệp và gốm Bàu Trúc) và 3 sản phẩm tiềm năng đặc thù (Bò vàng, heo đen và trái cây Ninh Sơn).

3.3/ Về y tế và dân số: Mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng được kiện toàn; kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh. Cơ sở vật chất và trang thiết bị khám chữa bệnh được quan tâm đầu tư; tập trung triển khai Đề án phát triển Bệnh viện đa khoa tỉnh lên hạng I, quy mô 1.000 giường; công tác xã hội hóa y tế có bước phát triển (đang xây dựng Bệnh viện Sài gòn - Phan Rang quy mô 100 giường, dự kiến hoàn thành trong Quý IV/2018). Các chương trình hợp tác chuyên môn kỹ thuật với các Bệnh viện TP.HCM và một số bệnh viện Trung ương triển khai đạt hiệu quả; tỷ lệ chuyển bệnh nhân lên tuyến trên giảm so với cùng kỳ. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế ước đạt 86,2%, tăng 12,7% so với năm 2015. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường.

3.4/ Hoạt động văn hóa-thông tin, báo chí, thể dục-thể thao

Hoạt động văn hóa-nghệ thuật được quan tâm đổi mới về nội dung và hình thức, chất lượng được nâng lên; tổ chức thành công các sự kiện văn hóa lớn, góp phần quảng bá hình ảnh quê hương, con người Ninh Thuận. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đạt kết quả tích cực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được tập trung triển khai, cơ bản đạt mục tiêu đề ra. Hoạt động thể dục thể thao có bước phát triển về quy mô và chất lượng, phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì.

Hoạt động thông tin, truyền thông được mở rộng; thông tin báo chí có đổi mới về nội dung và cải tiến về hình thức; thời lượng phát sóng được nâng lên (đến năm 2018 tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt 99%, phủ sóng truyền hình đạt 98%). Hợp tác, liên kết hiệu quả với các Đài trong khu vực và Trung ương, mở nhiều chuyên mục mới, đóng góp tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

3.5/ Thực hiện chính sách xã hội, công tác bảo đảm an sinh xã hội

Thực hiện các chính sách người có công và an sinh xã hội đảm bảo đầy đủ, kịp thời và đúng quy định. Các hoạt động chăm sóc người có công được duy trì (100% xã, phường được công nhận làm tốt công tác thương binh liệt sỹ và người có công; chăm sóc nhận đỡ đầu phụng dưỡng 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng); phong trào đền ơn đáp nghĩa được triển khai sâu rộng (trong 3 năm, đã xây dựng, sửa chữa 1.254 căn nhà cho gia đình có công, số tiền trên 32.785 triệu đồng), tỷ lệ hộ người có công có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú đạt 99%. Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, bình đẳng giới được quan tâm.

Công tác giải quyết việc làm và giảm nghèo có chuyển biến tích cực, huy động được nhiều nguồn lực và lồng ghép có hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững với chính sách tín dụng xã hội. Từ năm 2016 đến tháng 6/2018, đã giải quyết việc làm cho hơn 44.980 lao động, trong đó làm việc có thời hạn ở nước ngoài 377 lao động; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,93% năm 2015 xuống còn 8,86% năm 2018; tỷ lệ hộ cận nghèo 9%.

4/ Quốc phòng-an ninh

Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương, xây dựng khu vực phòng thủ trong tình hình mới; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch, phản động. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến dân tộc, tôn giáo, khiếu kiện đông người, hạn chế thấp nhất việc phát sinh “điểm nóng”, không để bị động, bất ngờ. Đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các loại tội phạm, không để xảy ra tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu “xã hội đen”.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan nội chính trong hoạt động tư pháp có nhiều chuyển biến tích cực. Hoạt động của các cơ quan tư pháp trong công tác bắt giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án bảo đảm đúng pháp luật, hạn chế sai sót và bỏ lọt hành vi phạm tội. Công tác thanh tra, phòng chống tham nhũng, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được tăng cường, bảo đảm tốt quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

5/ Hiệu lực quản lý, hiệu quả điều hành của chính quyền các cấp

5.1/ Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp

Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy của HĐND các cấp được quan tâm củng cố, kiện toàn gắn với đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, góp phần nâng chất lượng hoạt động của HĐND các cấp. Công tác thẩm tra, giám sát, khảo sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND bước đầu đổi mới theo hướng tăng cường khảo sát, giám sát chuyên đề. Công tác chất vấn tại các kỳ họp HĐND và các phiên họp của Thường trực HĐND từng bước đi vào chiều sâu, thực chất hơn, tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Công tác tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, đôn đốc, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri được chú trọng. Đại biểu HĐND các cấp luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trước cử tri, phát huy trí tuệ, đóng góp vào quyết định các vấn đề quan trọng của kỳ họp.

5.2/ Hoạt động quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp

Tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan hành chính các cấp từng bước được sắp xếp, kiện toàn và đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, điều hành. Chất lượng tham mưu và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị được nâng lên; kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ được tăng cường. Công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính được tập trung chỉ đạo; các chỉ số về cải cách thủ tục hành chính (PAR INDEX), hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), chỉ số đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính (SIPAS) và chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đạt thứ hạng trung bình trong cả nước (Chỉ số PAPI năm 2016 xếp hạng 17/63; năm 2017 xếp hạng 30/63; Chỉ số PAR INDEX năm 2016 xếp hạng 19/63, năm 2017 xếp hạng 30/63; Chỉ số PCI năm 2016 xếp hạng 49/63, năm 2017 xếp hạng 38/63).

6/ Về công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị

6.1/ Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được đổi mới, nâng cao hiệu quả, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương

Công tác giáo dục tư tưởng, chính trị tiếp tục được quan tâm và có chuyển biến tích cực; từng bước nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền những ngày lễ lớn, những sự kiện chính trị quan trọng của Đảng, của đất nước, những kết quả nổi bật trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh và tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt và triển khai các nghị quyết của Đảng.

Kịp thời nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân để định hướng dư luận, chấn chỉnh thông tin sai lệch, góp phần ổn định tư tưởng nội bộ và dư luận xã hội trước những vấn đề phức tạp nảy sinh. Tăng cường công tác quản lý, phát huy vai trò của báo chí, xuất bản trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng được triển khai nghiêm túc và trở thành việc làm thường xuyên, tự giác của các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII.

6.2/ Công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng Đảng được quan tâm và đạt được kết quả tích cực

- Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã được các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị thực hiện quyết liệt, đề ra kế hoạch, lộ trình, bước đi phù hợp với tinh thần trách nhiệm cao.

- Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt Nghị quyết 18-NQ/TW, Nghị quyết 19-NQ/TW về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Một số cơ quan, địa phương đã tiến hành sắp xếp thu gọn các đầu mối bên trong và hợp nhất các đơn vị; đồng thời rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động cho phù hợp.

- Công tác cán bộ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nhất là công tác đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, lấy hiệu quả công việc làm thước đo. Thường xuyên rà soát, củng cố, kiện toàn cán bộ lãnh đạo, quản lý các sở, ban, ngành, địa phương cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; triển khai thực hiện thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo quản lý cấp sở, cấp phòng bằng hình thức thi tuyển, đảm bảo công khai, minh bạch trong công tác bổ nhiệm cán bộ. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước được nâng lên; các loại hình tổ chức đảng trong đảng bộ được củng cố, kiện toàn.

6.3/ Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng được tập trung triển khai, chất lượng, hiệu quả được nâng lên

Công tác kiểm tra, giám sát tiếp tục được đổi mới, đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; đảm bảo chủ động, toàn diện, chất lượng từng bước được nâng lên. Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục những vi phạm, khuyết điểm; việc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên cơ bản đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, đảm bảo dân chủ, khách quan góp phần giáo dục, răn đe đảng viên vi phạm, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.

6.4/ Công tác dân vận luôn được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, không ngừng đổi mới và mang lại hiệu quả thiết thực

Cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công tác tiếp dân và đối thoại trực tiếp với Nhân dân; chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân và những vấn đề Nhân dân quan tâm.

Mặt trận, các đoàn thể và hội quần chúng tập trung nâng hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên, củng cố và phát huy sức mạnh Đại đoàn kết dân tộc; đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới; tiến hành giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước theo chương trình, kế hoạch đề ra. Tiếp tục đổi mới nội dung phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, quan tâm đến nguyện vọng, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, của đoàn viên, hội viên, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

6.5/ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Tỉnh ủy ban hành quy chế làm việc, chương trình công tác toàn khóa và được cụ thể thành Chương trình công tác hàng năm, quý, tháng. Cấp ủy hoạt động đúng quy chế, đúng thẩm quyền, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ; phát huy trí tuệ tập thể trong việc bàn và cho ý kiến những vấn đề quan trọng. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình, chất vấn trong Đảng theo quy định của Trung ương.

Lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đảm bảo toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; vừa quan tâm giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc trước mắt, vừa đề ra các chủ trương, giải pháp để giải quyết những vấn đề chiến lược lâu dài, bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Đồng thời, kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo để cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương.

Phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc tiếp tục được đổi mới theo hướng sâu sát cơ sở, gần dân; phân công, phân nhiệm rõ ràng; dành nhiều thời gian cho việc kiểm tra, chỉ đạo công tác các ngành, các địa phương, đơn vị.

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỜI GIAN CÒN LẠI CỦA NHIỆM KỲ 2015 - 2020

Thời gian tới, làn sóng đầu tư mới đang phát huy hiệu quả; cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh đã được phê duyệt và những đột phá trong lĩnh vực kinh tế biển, năng lượng tái tạo, các dự án động lực thay thế được triển khai sẽ tác động tích cực đến phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, tình hình biến đổi khí hậu, hạn hán, lũ lụt; nguồn lực đầu tư công còn hạn chế, hoạt động doanh nghiệp còn khó khăn; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu là những khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

I/ Một số chỉ tiêu đạt thấp, còn nhiều khó khăn cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong 2 năm còn lại 2019-2020

(1) Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt 85 triệu USD (mục tiêu là 150 triệu USD).

(2) Tỷ lệ trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia năm 2018 đạt 39,4% (mục tiêu là 50%).

(3) Tỷ lệ che phủ rừng năm 2018 đạt 43%, mục tiêu đến năm 2020 là 50%.

(4) Tốc độ tăng trưởng GRDP 02 năm đầu 2016, 2017 gặp khó khăn nên tăng trưởng thấp (6,2% và 9,5%). Năm 2018 dự kiến tăng trưởng đạt từ 10,2% trở lên và bình quân 3 năm (2016-2018) đạt 8,6%. Để đạt mục tiêu đến năm 2020 tăng trưởng bình quân 10-11%/năm, thì 02 năm còn lại (2019-2020) tăng trưởng bình quân hàng năm đạt từ 12,7% trở lên.

(5) Thu ngân sách năm 2015 đạt 1.883 tỷ đồng, năm 2018 ước đạt 2.300 tỷ đồng, bình quân giai đoạn 2016-2018 mỗi năm tăng thêm 139 tỷ đồng. Để đạt mục tiêu đến năm 2020 từ 2.800 - 3000 tỷ đồng, thì 02 năm còn lại (2019-2020) mỗi năm tăng thêm từ 250-350 tỷ đồng.

(6) Nông thôn mới: Đến cuối năm 2018 dự kiến có 19 xã đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Để đạt mục tiêu đến năm 2020 có 50% số xã (tương đương 24 xã) và từ 1-2 huyện đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới, thì 2 năm còn lại (2019-2020) tăng thêm 5 xã và 1 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.

(7) Số bác sỹ/vạn dân: Đến cuối năm 2018 đạt 8 bác sỹ/vạn dân (tương đương 490 bác sỹ). Để đến năm 2020 đạt mục tiêu 10 bác sỹ/vạn dân (tương đương 623 bác sỹ), thì 2 năm còn lại (2019-2020) tăng thêm 133 bác sỹ. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế đến cuối năm 2018 đạt 80% (tương đương 52 xã, phường, thị trấn); để đến năm 2020 đạt mục tiêu 90% (tương đương 59 xã, phường, thị trấn), thì 2 năm còn lại (2019-2020) phải có thêm 7 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.

(8) Tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà vệ sinh: Đến cuối năm 2018 đạt 75% (khoảng 79,2 ngàn hộ - toàn tỉnh có 105,6 ngàn hộ nông thôn). Để đạt mục tiêu đến năm 2020 đạt 85% (khoảng 89,7 ngàn hộ), thì 2 năm còn lại (2019-2020) tăng thêm 10%, khoảng 10,5 ngàn hộ nông thôn có nhà vệ sinh.

II/ Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong 2 năm còn lại 2019-2020

1/ Về kinh tế: Tiếp tục bám sát Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh gắn với triển khai thưc hiện có hiệu quả Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ, khai thác và phát huy các khâu đột phá về kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong nội bộ từng ngành, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đầu tư năng lượng tái tạo góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh nhà. Ảnh:Văn Nỷ.

- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tập trung chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành chăn nuôi để từng bước trở thành ngành sản xuất chính; chuyển dịch mạnh cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng để nâng cao tính ổn định, giá trị sản xuất. Tiếp tục quan tâm đầu tư hệ thống thủy lợi, đấu nối liên thông các hồ chứa, tăng tỷ lệ chủ động nước tưới. Tăng cường bảo vệ, quản lý và phát triển rừng, tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp, nguồn lực để nâng tỷ lệ độ che phủ rừng. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng chất lượng nuôi trồng thủy sản. Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả kế hoạch chống hạn, thiên tai trong những tháng cuối năm, đảm bảo hạn chế thấp nhất thiệt hại do hạn hán, thiên tai gây ra. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể, phát huy hiệu quả vai trò của hợp tác xã trong phát triển kinh tế nông thôn.

- Công nghiệp-xây dựng: Trọng tâm tạo tăng trưởng bứt phá của ngành công nghiệp-xây dựng; phát huy mạnh mẽ hiệu quả năng lực sản xuất hiện có, nhất là một số sản phẩm chủ lực (muối biển, tôm đông lạnh, tinh bột mỳ, đá xây dựng, đá granite, bia lon, dệt may...). Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, có những giải pháp quyết liệt, đồng bộ đẩy nhanh tiến độ các dự án lớn, quan trọng, nhất là các dự án năng lượng tái tạo điện gió, điện mặt trời; xúc tiến đẩy nhanh tiến độ triển khai tổ hợp điện khí Cà Ná, thủy điện tích năng Bác Ái, cảng biển tổng hợp Cà Ná, công nghiệp chế biến, các khu đô thị mới, tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển các khu, cụm công nghiệp và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Các ngành dịch vụ: Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế, có giá trị gia tăng cao như du lịch, thương mại, vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ bất động sản. Phát huy hiệu quả các trung tâm thương mại, siêu thị, hệ thống chợ, tiếp tục thực hiện tốt chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Tiếp tục phát huy lợi thế về phát triển du lịch, nhất là phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hóa, đa dạng sinh học; khẩn trương xây dựng Quy hoạch Khu du lịch quốc gia Ninh Chữ; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án du lịch, nhất là các dự án có quy mô lớn, đẳng cấp cao, nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút du khách.

Tạo đột phá trong quản lý và khai thác có hiệu quả tài nguyên, khoáng sản, nhất là nguồn lực đất đai; tăng cường công tác kiểm tra giám sát, bảo đảm quản lý chặt chẽ môi trường, nhất là các dự án lớn và các khu vực nhạy cảm.

- Tài chính, ngân hàng: Đẩy mạnh các biện pháp chống thất thu ngân sách, kiên quyết xử lý nợ đọng thuế, khai thác có hiệu quả nguồn thu từ đất đai và các khoản thu mới. Thực hiện có hiệu quả chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp theo chiều sâu, tập trung vào các lĩnh vực tỉnh có lợi thế.

- Kinh tế đối ngoại: Tiếp tục đổi mới hình thức tiếp xúc, kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực có lợi thế của tỉnh. Chủ động vận động nguồn vốn ODA để xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, ứng phó biến đổi khí hậu.... Thực hiện có hiệu quả các chương trình liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong nước và nước ngoài. Tập trung mở rộng quy mô sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế của tỉnh, phấn đấu nâng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt mục tiêu đề ra.

- Đầu tư phát triển: Tăng cường công tác tuyên truyền, đồng thời thực hiện tốt công tác phối hợp, triển khai ngay các công việc cần thiết để tranh thủ, tận dụng tốt các cơ hội, nguồn lực của Cơ chế đặc thù hỗ trợ tỉnh theo Nghị quyết số 115/NQ-CP của Chính phủ. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư các thành phần kinh tế, hỗ trợ tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ triển khai hoàn thành.

2. Về xã hội

- Về giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ: Tập trung rà soát, sắp xếp mạng lưới trường lớp học và đội ngũ giáo viên để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giảm dần sự chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các vùng trong tỉnh. Rà soát nâng tỷ lệ và chất lượng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Tiếp tục triển khai dự án xây dựng phân hiệu Đại học Nông lâm tại tỉnh thành phân hiệu mạnh để từng bước hình thành trường Đại học đa ngành tại tỉnh khi đủ điều kiện. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp, xúc tiến hợp tác với các tổ chức có uy tín, có thương hiệu thành lập cơ sở đào tạo tại tỉnh.

Tiếp tục đầu tư nghiên cứu các đề tài, dự án phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các đề tài có tính ứng dụng cao trong sản xuất nông nghiệp và thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản phẩm và thương hiệu.

- Y tế, dân số- lao động: Tiếp tục triển khai thực hiện tốt kế hoạch của Tỉnh ủy về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe Nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới. Tập trung củng cố, sắp xếp hệ thống y tế, mở rộng chương trình hợp tác về y tế. Thực hiện tốt các chính sách người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội; rà soát, thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững; quan tâm giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

- Văn hóa - thông tin: Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Nâng cao chất lượng công tác quản lý báo chí, tuyên truyền. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thể dục, thể thao.

3. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao các chỉ số PAR INDEX, PAPI, SIPAS, PCI; nâng cao hiệu quả và chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp.

4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra phòng chống tham nhũng, lãng phí; duy trì tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; nắm chắc tình hình và xử lý kịp thời các vấn đề, vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự trên địa bàn, nhất là các địa bàn trọng điểm, kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống, không để xảy ra điểm nóng. Chủ động đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

5. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, nhất là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

- Tăng cường công tác nắm tình hình tư tưởng, dư luận của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với những sự kiện chính trị quan trọng, những vấn đề nhạy cảm để kịp thời định hướng công tác tư tưởng, nhất là đấu tranh với các thông tin sai trái, xuyên tạc; làm tốt công tác tư tưởng nội bộ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

- Quyết tâm, quyết liệt triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 18-NQ/TW, Nghị quyết 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) và Chương trình, kế hoạch của Tỉnh ủy đã đề ra. Triển khai thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

- Tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng để đảm bảo các chủ trương của Đảng được triển khai nghiên túc, đúng quy định, góp phần răn đe các trường hợp vi phạm, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

6. Đổi mới hơn nữa công tác dân vận, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân thông qua triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận; tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong hệ thống chính trị; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

7. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Các cấp ủy đảng dành nhiều thời gian để chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy cấp dưới theo hướng gần dân, sát dân, tăng cường đối thoại trực tiếp với Nhân dân. Thực hiện tốt chủ trương chất vấn trong đảng và đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo và sinh hoạt của các cấp ủy, tổ chức đảng. Phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ, nói đi đôi với làm.