Sức mạnh của lòng dân

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc Việt Nam. Từ chiến khu tới đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, toàn dân đều nhất tề nổi dậy, đồng lòng đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc cách mạng ấy đã đem lại độc lập, tự do cho dân tộc ta, nhân dân ta sau hàng nghìn năm trong đêm dài nô lệ.

Nhìn lại lịch sử 73 năm, có thể thấy, một trong những bài sử vô giá, cốt lõi của mọi thành công là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào sự đồng thuận của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bài học ấy không chỉ sâu sắc trong chiến tranh giải phóng mà còn tiếp tục soi rọi trong mỗi bước đường phát triển của công cuộc đổi mới và hội nhập hôm nay.

Quang cảnh mít-tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Việt Minh tổ chức
tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Ảnh tư liệu

Toàn dân nổi dậy, cả nước đồng lòng đứng lên

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đại đoàn kết là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn, thành bại của cách mạng nước nhà. Người khẳng định: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”(1).

Trên cơ sở đó, Đảng ta đã không ngừng xây dựng, củng cố khối liên minh công-nông và ngày càng mở rộng lực lượng ra toàn dân tộc. Cùng với chủ trương đoàn kết, tập trung nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phù hợp với khát vọng của toàn thể dân tộc, đi đôi với việc chăm lo củng cố khối liên minh công nông, Đảng ta rất coi trọng việc đoàn kết, tập hợp các lực lượng khác: thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, tiểu thương, tư sản, địa chủ… và kịp thời đưa ra hình thức tổ chức thích hợp, đa dạng nhằm tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân.

Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, nhằm “liên hiệp hết thảy các giới, đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” (2). Và, coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh “sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập” (3).

Với tên gọi và mười chính sách có sức thức tỉnh tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân, Mặt trận Việt Minh có sức thu hút, quy tụ mạnh mẽ đối với toàn thể dân tộc và đồng bào sinh sống ở nước ngoài. Dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, sức mạnh quật cường, tinh thần sáng tạo của nhân dân được nhân lên gấp bội. Quần chúng nhân dân được tổ chức thành các đoàn thể cứu quốc: Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… Càng tiến gần tới cuộc Tổng khởi nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất càng mở rộng, thu nạp thêm nhiều tổ chức yêu nước, thu hẹp lực lượng chống đối và tầng lớp trung gian, tạo nên một lực lượng hùng mạnh.

Thực hiện Nghị quyết Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc dân Đại hội và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã nhất tề nổi dậy, giành chính quyền trong cả nước.

Có thể thấy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam mà còn chứng tỏ nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trên cơ sở lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân để tổ chức, tập hợp họ vùng lên đấu tranh “lấy sức ta giải phóng cho ta”. Vì thế, Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên một cao trào cách mạng rộng khắp, mạnh mẽ chưa từng thấy với đông đảo lực lượng tham gia, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần kinh tế, mọi giới và mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xác định lực lượng cách mạng - đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc. Không có lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như thế, không thể có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Sức mạnh của đại đoàn kết và những giá trị trường tồn

Sau Cách mạng Tháng Tám, cả dân tộc bước vào thời kỳ “kháng chiến kiến quốc”. Đây là thời kỳ vô cùng khó khăn khi ta phải đương đầu với cả giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm… Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Quốc hội ra đời với các đại biểu đến từ tất cả các giai, tầng trong xã hội, từ công nhân, nông dân, tiểu tư sản, người dân tộc thiểu số thuộc mọi ngành, lĩnh vực văn hóa, tôn giáo…

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng không ngừng quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc, giúp nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng trong hơn 30 năm đổi mới.

Đặc biệt, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết theo tinh thần: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những bài học chủ yếu đưa công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi như ngày hôm nay là mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố chính là nhân tố bảo đảm ổn định tình hình chính trị - xã hội, tăng trưởng kinh tế cao, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội…

Hiện nay, nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tăng cường hội nhập quốc tế. Bên cạnh những thời cơ lớn, nước ta cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức không hề nhỏ trong bối cảnh trong nước và quốc tế có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường.

Trước những thời cơ và thách thức đan xen đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (4).

Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới, Đảng ta nhấn mạnh phải “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia- dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” (5).

Kinh nghiệm của cha ông cũng như quy luật của lịch sử đã minh chứng, chỉ khi nào kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước; biến được sức mạnh ngoại sinh thành sức mạnh nội sinh, thành ý chí của toàn dân tộc chúng ta mới có thể bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ và bảo vệ thành công sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với những thành quả cách mạng đã đạt được, dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, sự quản lý điều hành năng động, sáng tạo của Nhà nước cùng tài năng, đức tính cần cù, ý chí và khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân dân ta, tiếp tục vận dụng bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có đầy đủ cơ sở để vững tin vào sự hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nguồn TTXVN

---------------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t3, tr.217.
(2), (3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t7, tr.461.
(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.158, 159.